Thứ Năm, 9 tháng 11, 2017

Người Pháp biến Sài Gòn thành "Hòn ngọc Viễn Đông" ra sao?

TTO - Người Pháp sau khi chiếm 6 tỉnh Nam kỳ 1862, đào ngay con kênh rất dài, rất rộng phía bắc Sài Gòn, suýt soát  lũy Bán Bích 1772. Nhưng họ đã bỏ dở con kênh dài nhất nhưng cũng "bí ẩn" nhất Sài Gòn.


Một vài góc nhìn Sài Gòn thời thuộc Pháp (từ trái qua phải, trên xuống dưới): Phía sau Nhà hát lớn nhìn ra đường Nguyễn Huệ, Ngã tư Nguyễn Huệ - Lê Lợi, Nhà hát lớn nhìn từ đường Lê Lợi, rạch Thì Nghè khu vực Đa Kao - Ảnh tư liệu
Đó là con kinh do người Pháp đào năm 1862 (có tư liệu cho là đào năm 1875) từ dự án "TP Sài Gòn 500 ngàn dân" 1861 của Trung tá công binh Coffyn. 
Trên bản đồ hiện nay, con kinh này bắt đầu từ đường Trần Quang Khải (Q.1, TP.HCM) thẳng qua giữa rạch Thị Nghè, cắt ngang đầu rạch Thị Nghè, qua đường Cách Mạng Tháng Tám (Q.3), vòng ra sau lưng sân Phú Thọ (Q.11), đâm xuống và nối với kênh Lò Gốm, chạy sát sau lưng đồn Cây Mai (góc Hồng Bàng - Nguyễn Thị Nhỏ hiện nay).
40.000 dân Sài Gòn và 5 tỉnh Nam kỳ còn lại được huy động đào kinh này, một số lượng người rất lớn so với dân số Nam kỳ lúc đó cho thấy người Pháp đã kỳ vọng ra sao với nó. 
Tham vọng bị bỏ dở của "kênh Thắt Lưng" cho Sài Gòn
Mời bạn coi một trong những tấm bản đồ chính xác nhất về Sài Gòn người Pháp vẽ trong thế kỷ 19, đó là tấm bản đồ vẽ năm 1892, đúng 30 năm sau khi Pháp chiếm trọn Nam kỳ lục tỉnh:


Bản đồ Sài Gòn và vùng phụ cận 1892 cho thấy kênh Vòng Thành phía Bắc Sài gòn - Chợ Lớn hiện lên rất rõ, bao Sài Gòn - Chợ Lớn thành một cù lao giữa bốn bề sông nước. Và hệ thống một loạt đường sá từ Sài Gòn ra Chợ Lớn hầu như song song với hướng đông nam của cổng chính 2 thành Gia Định  - Ảnh tư liệu - Đồ họa và chú thích đối chiếu với đường phố hiện nay: TRỊ THIÊN - M.C
Con kênh này gần như nương theo lũy Bán Bích của Nguyễn Cửu Đàm  cho Quy hoạch Sài gòn 1772.


Lũy Bán Bích trong Quy hoạch Sài Gòn 1772 trên bản đồ Trần Văn Học 1815
 - Ảnh tư liệu - Đồ họa: TRỊ THIÊN

Người Pháp gọi đó là kênh Ceinture (canal de Ceinture - kênh Thắt Lưng), dân Sài Gòn hồi thập niên 1960 vẫn gọi là kênh Vòng Thành hoặc kênh Bao Ngạn.
Con kênh này nối hai đầu rạch Bến Nghé với rạch Thị Nghè, tạo một đường nước bao hoàn toàn vùng Sài Gòn Chợ Lớn, thay lũy Bán Bích 1772. Và như vậy, với rạch Thị Nghè - sông Sài Gòn - rạch Bến Nghé - kênh Vòng Thành, Sài Gòn trở thành vùng cù lao. 
Dự tính của người Pháp không dừng lại ở đó. Kèm theo con kênh, họ đã mở một loạt con đường rất lớn phía bắc kênh, nay là các con đường: Hoàng Văn Thụ, Lý Thường Kiệt, Lạc Long Quân, Lãnh Binh Thăng... Các con đường này đều thông về phía Chợ Lớn theo hướng bắc (các con đường của Quy hoạch 1772 thông theo hướng đông nam).
Những con đường nhằm nối khu vực phía bắc, tây Sài Gòn với Chợ Lớn và miền Tây chứ không chỉ khu vực trung tâm Sài Gòn.
Theo học giả Vương Hồng Sển, con kênh này theo kế hoạch "bề ngang 20 thước, bề sâu sáu thước (...). Nhưng công việc dở dang thất bại, và Đô Đốc Bonard đành bỏ nửa chừng công tác ấy".
Nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển không nói dở dang ra sao và lý do thất bại. Còn Chuyên khảo tỉnh Gia Định năm 1902 (Monographie de  la Province de Gia - Định, 1902) thì kênh Vòng Thành đã được đào nhưng toàn kênh chưa được đem vào sử dụng vì bùn đất lên quá nhanh, ghe thuyền không đi được).
Việc bỏ dở này có lẽ do quy mô con kênh không còn theo ý định ban đầu rộng tới 20m mà nhỏ hơn nhiều. Cũng theo Chuyên khảo tỉnh Gia Định năm 1902, kinh dài 7km, rộng 10m,  sâu 3m, nhưng đến năm 1902 , kinh chưa hề được sử dụng vì vùng Phú Thọ đáy sông bùn lên  cao hơn mực thủy triều. 
Dù vậy, các bản đồ của Pháp sau đó và bản đồ VNCH đến 1975, con kênh này đều rất rõ. 

Bản đồ Sài Gòn đến 1975 vẫn còn ghi nhận kênh Vòng Thành rất rõ
 (màu xanh dương phía trên) - Ảnh tư liệu

Đầu thập niên 90 thế kỷ trước, từ đường Cách Mạng Tháng Tám vô, chúng tôi vẫn thấy nhiều đoạn kênh này dọc đường Bắc Hải (Q.10) vẫn còn bên dãy tường sát Công viên Lê Thị Riêng - Q.10, nhưng chỉ nhỏ như rãnh nước (hiện nay là những dãy nhà nhỏ và không sâu).
Và đây là ranh giới giữa đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định (hiện là ranh giới quận 10 - quận Tân Bình. Trước 1975, có tấm bảng lớn đặt nơi đây: "Đô thành Sài Gòn kính chào các bạn").
Vấn đề là tại sao người Pháp giảm nhiệt huyết với con kênh hoành tráng thông thủy, thông vùng kinh tế cho cả khu vực phía bắc, phía tây Sài Gòn?
Cũng như vậy, về phía nam Sài Gòn, con đường Nguyễn Tất Thành chạy ra quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ hiện nay đến 1954 vẫn như một vùng hoang hóa, đầm lầy?
Qua thực tế, nhiều thế hệ kiến trúc sư, nhà quy hoạch người Pháp gửi nhận định, kết luận của mình cho nhà cầm quyền ở Nam kỳ cũng như chính quốc: Sài Gòn - Chợ Lớn phát triển mạnh theo hướng đông tây do gắn với nguồn nguyên vật liệu dồi dào, thị trường tiêu thụ cũng như nguồn nhân công.
Theo đó, khu vực phía bắc và nam Sài Gòn không có những ưu điểm này cùng với nguồn nước ngọt thiếu thốn, thậm chí phía nam là vùng bị hoàn toàn bị xâm nhập mặn nặng nề.
Người Pháp tập trung phát triển Sài Gòn theo hướng đông tây
Những ngày đầu chiếm Sài Gòn, người Pháp thật ra không phải không có những sai lầm trong quy hoạch, thiết kế Sài Gòn.
Không chỉ kênh Vòng Thành, nhiều con kênh khác ngay trung tâm Sài Gòn cũng đã được đào và cũng nhanh chóng bị lấp: kênh Lớn (Grand canal - dân Việt gọi là kênh Chợ Vải vì bên dòng kênh là chợ Vải, mà nhiều người nhầm gọi đó là chợ Bến Thành cũ) đào năm 1867, lấp 1887 (thành đường Nguyễn Huệ hiện nay); kênh Coffyn (lấy tên Trung tá công binh Coffyn lập Quy hoạch "Sài Gòn 500 ngàn dân" 1862) lấp năm 1892 (thành đường Lê Lợi hiện nay)...
Nhưng quan trọng hơn, người Pháp đã nhanh chóng nhận ra một điều: không phải ngẫu nhiên mà trước đó, người Việt tập trung phát triển Sài Gòn theo hai hướng đông tây.
Thế là hàng loạt đường phố, kênh rạch, cầu... khu vực đông, tây Sài Gòn được xây dựng.
Dọc rạch Bến Nghé từ Sài Gòn ra Chợ Lớn, một con đường được xây dựng mà người Việt lúc đó gọi là đường Dưới (so với đường Trên - đường Nguyễn Trãi hiện nay). 
Hai bên rạch Bến Nghé hình thành một loạt bến bãi chạy dài từ Sài Gòn ra Chợ Lớn, không chỉ là đường đi mà còn là đường vận chuyển hàng hóa Sài Gòn - Chợ Lớn - miền Tây: Bến Bạch Đằng, Hàm Tử, Chương Dương, Vân Đồn, Bình Đông... (hiện nay là đại lộ Võ Văn Kiệt bên phía Q.1, 5; Bến Bình Đông bên Q.8).
Tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương (và là tuyến đường sắt thứ hai do người Pháp xây dựng ở nước ngoài, sau tuyến đường sắt 13km ở Pondichéry, Ấn Độ, 1879) chạy từ ga Sài Gòn (lúc đó nằm ở Công viên 23-9 hiện nay) về miền Tây: Sài Gòn - Mỹ Tho, dài 70km hoạt động từ 1885.
(Hành khách và hàng hóa Sài Gòn - Mỹ Tho đi tuyến này nhiều đến mức sau 3 năm, Thống đốc Nam Kỳ quyết định lấy lại quyền khai thác tuyến đường này từ 1888, sau khi đền bù cho nhà thầu Joret xây dựng và khai thác tuyến đường 315.755 francs. Năm 1896, tổng lãi thu được từ tuyến đường sắt là 3,22 triệu francs, năm 1912 lãi 4 triệu francs). 
Ở phía Tây, bên cạnh hai tuyến thủy bộ từ Sài Gòn đi Chợ Lớn, miền Tây của người Việt trước đó (đường Nguyễn Trãi, rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hũ...), đến bản đồ 1892, chúng ta đã thấy con đường từ giữa thành Gia Định ra (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) đã được nối dài sang giữa Chợ Lớn.

Bến Bạch Đằng đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu

Một con đường khác, đường Điện Biên Phủ ngày nay chạy song song với Nguyễn Thị Minh Khai cũng tiến về Chợ Lớn.
Trên bản đồ 1892, đường 3-2 ngày nay đã vượt qua Cách Mạng Tháng Tám và rõ ràng vẫn đang tiến tiếp về phía Chợ Lớn, miền Tây.
Lượng hàng hóa và người qua lại giữa Sài Gòn và miền Tây vẫn phát triển mạnh. Khu vực đầm lầy giữa Sài Gòn - Chợ Lớn mà sau này trở thành đại lộ Trần Hưng Đạo cũng được san lấp ngay sau khi chợ Bến Thành khai thị 1914 nhằm tăng mạnh hàng hóa giữa Sài Gòn - Chợ Lớn - miền Tây, trực tiếp là cho nguồn hàng hòa thông thương giữa chợ Bến Thành và Chợ Lớn.
Về hướng đông, cầu Bình Lợi, cây cầu đầu tiên vượt sông Sài Gòn hướng ra miền đông cũng được đưa vào sử dụng năm 1902, rút ngắn tuyến đường đi Thủ Đức, Biên Hòa, các tỉnh miền Trung, miền Bắc, thông với đường thiên lý Bắc Nam của người Việt xưa.


Cầu Bình Lợi trên đường ra Thủ Đức, Biên Hòa đầu thế kỷ 20 - Ảnh tư liệu


Quy hoạch "Sài Gòn 500 ngàn dân" của Trung tá công binh Coffyn - 1862
(Khi Pháp chiếm xong Nam kỳ lục tỉnh).
- Thành Phố Sài Gòn nằm trong bốn đường nước (bản đồ 1892 phía trên).
- Quy hoạch phân lô các loại đất: Cụ thể hạng nhất (nhà buôn nhỏ trên bến cảng): 10x12m =120m2; hạng hai (nhà buôn lớn trên bến cảng): 20x20m = 400m2; hạng ba (nhà ở trong đô thị): 20x80m = 1600m2; hạng tư (nhà ở ngoại ô): 9x50m = 450m2.


Đường Catinat (Đồng Khởi hiện nay) do người Pháp tôn tạo từ một con đường xưa trước thời thuộc Pháp - Ảnh tư liệu

- Đường Imperial (Hai Bà Trưng ngày nay) là trục đông-tây của Sài Gòn. Đông: khu hành chánh, từ Hai Bà Trưng cho tới rạch Thị Nghè, rộng khoảng 2km2. Tây: từ Hai Bà Trưng ra tới Chợ Lớn, tức phần Sài Gòn còn lại, rộng 23km2: khu thương mại, dịch vụ, công nghiệp..
- Quy hoạch đường sá, bến cảng: chiều rộng của các đường phố chính 40m, vỉa hè hai bên rộng 4m có hai hàng cây mỗi bên; đường phụ 30 m, vỉa hè 2m, mỗi bên trồng một hàng cây. Các bến sông Sài Gòn cũng như rạch Bến Nghé, rạch Thị Nghè rộng 40m, vỉa hè 6m, trồng hai hàng cây ở hai bên.
- Quy hoạch về hệ thống nước, cung cấp nước tiêu dùng, thoát nước: do địa hình Sài Gòn bằng phẳng, không cao hơn mặt nước, lại có triều cường nên không cho phép đặt những đường ống cống bình thường mà là những ống cống với cửa cống đóng mở tự động…
-Quy hoạch về an ninh phòng thủ...


Nguồn: https://tuoitre.vn/nguoi-phap-bien-sai-gon-thanh-hon-ngoc-vien-dong-ra-sao-1075753.htm

Thứ Hai, 6 tháng 11, 2017

Những rạp tuồng của hồi ức truyền thanh

Trưa Chủ nhựt đứng trong bếp làm cơm, mở cửa sổ bếp ngó ra khu vườn chung của cả xóm, chợt nghe tiếng guitar phím lõm mổ óng ả như nắng trưa rây lá một điệu dạo quen thuộc: “tằng tắng tăng...”
Có tiếng đàn ông đàn bà, giọng Sài Gòn rặt, léo nhéo tranh cãi mà lên bổng xuống trầm, tạt ngược chiều khói bếp, len vô tận nơi tôi đang đứng.
Người đàn bà giọng thổ, phát âm rõ rệt phụ âm “s” và “tr” một cách sang trọng. Nàng đang ra ý bất bình nhưng không chút cao giọng. Tiếng người đàn ông giọng kim van vỉ trấn an nhưng cũng có vẻ quyết liệt.
Tôi có biết hai người này, lâu rồi thì phải.
Và tôi không hề là thị dân Sài Gòn duy nhất biết tới họ - cặp sóng thần vang danh của đoàn Dạ Lý Hương một thuở.
Tới lớp này, kép Hùng Cường đang toan tính cưới vợ giàu để trả nợ cho đoàn hát...
Từ huyền thoại Dạ Lý Hương đến sóng FM lúc 11 giờ Chủ nhựt
Cuối thập niên 1960, sự phát triển của kỹ nghệ ciné chớp bóng cùng nỗi hỗn loạn trong bài bản giựt gân ăn khách khiến sân khấu cải lương đã chớp nháng thấy hồi suy kiệt. Tuồng Nữ hoàng về đêm khi này đã thực tả tài tình cái dự cảm bi đát đó.
Hẳn nhiên, cô tình nhân, vốn là đào hát sáng giá kiêu kỳ cự dữ dội. Len lỏi qua vườn cây đứng bóng nắng trưa, cái giọng đài các vừa dỗi hờn vừa khinh miệt, mà câu cú chát chúa miễn chê: Anh đã viện dẫn những lý do quá lớn lao mà cũng quá xa vời, trong khi tình yêu của chúng ta chỉ là một hiện hữu quá bé mọn đến không còn quyền tồn tại...
Kiên nhẫn mặc dù có phần đuối lý, anh kép lính đổi bài gallant xoa dịu trấn an người tình đang hồi giận dữ bằng thứ giọng kép mùi không đàn bà có lương tri nào chịu thấu: Không, tình chúng ta là tình thiên thu của trường giang sóng biển, âm thầm trôi giữa những bến bờ xa cách để làm thấp xuống và thâu ngắn lại... chơn... trời...
Nghe bài bản cũ mê đắm bần thần, ca từ, tuyến tâm lý, vận ngữ tài tình, hẳn nhiên, cả thuật ca diễn, chủ thuyết kịch bản... Chỉ tiếc là thời xưa không ai lưu hình vở tuồng một thời đình đám các rạp hát Sài Gòn của đoàn hát đã thành cái tên bảo chứng lừng danh Dạ Lý Hương.


Cặp sóng thần Hùng Cường - Bạch Tuyết. Ảnh: TL

Tới thời suy thoái, kép Hùng Cường bỏ ca diễn, bước vô tân nhạc và trở thành kép chớp bóng ciné, sánh vai cùng đào Kim Vui đẹp như Sophia Loren. Đoàn Dạ Lý Hương còn cầm cự được ít lâu, đào Bạch Tuyết lẻ bạn không tìm đâu ra kép tuồng ca diễn hạp ý. Ngoài kia, cải lương cũng dần tàn lụi, náu thân vào những hãng băng đĩa, màn ảnh truyền hình cũng chuộng thoại kịch và tân nhạc hơn nên tới những năm 1980, tàn dư di chỉ còn lại chỉ là vài khung giờ phát thanh trên radio trưa Chủ nhật.
Đó là chuyện hồi nẳm nảo nào xa xưa...
Ba tôi đứng dò đài radio những Chủ nhựt xưa lắc xưa lơ đó.
Hồi đó, thú vui tiêu khiển thập niên 80 chẳng có chi nhiều. Ngoài vài rạp tuồng còn rớt lại của Sài Gòn, thì đời sống tinh thần gói gọn trong nhựt trình, sách giấy, tivi đen trắng, và radio.
Hồi này, các rạp còn xập xình hoạt động nhưng các đoàn còn tồn tại được cũng quốc hữu hóa. Tuồng không có bài bản chi mới, các thầy tuồng vang danh ẩn dật đâu không rõ, và cũng chẳng còn viết lách dựng vở mới bởi có lẽ không viết được tuồng “tư tưởng”.
Rạp xập xệ dần...
Người ta chờ coi vài vở kinh điển phát trên truyền hình đen trắng vào mỗi tối Thứ bảy, xen kẽ với tuồng chuyển thể từ thoại kịch Nga Xô, coi cô đào bận đầm, sắm vai cô xã viên Xô viết tóc thắt hai bím kiểu văn công miền Bắc nhuộm vàng, lấy đà hà hơi một câu vọng cổ kiểu “Anh I-van Ả-lịch-xăng-rờ-lốp Xề-lô-ha-mì-lô-xê-mô-vích ôi…” coi mắc cười sút quần.
Sáng Chủ nhựt cả nhà dậy sớm, tôi lon ton cầm bạc cắc ra trước cửa kem Bạch Đằng mua mấy ổ bánh mì nóng giòn, ba đập trứng làm ốp-la, pha cà phê sữa, trong khi chị tôi, tay lăm lăm mấy tập tờ nhạc quay roneo, canh giờ dò radio nghe chương trình nhạc ngoại quốc theo yêu cầu.
Cứ như đã thành lệ, cả nhà mỗi người có một chương trình ưa chuộng riêng trên radio vào Chủ nhựt. Chị tôi khoái nghe nhạc ngoại quốc đã đành, tôi cũng xúm vào rình canh trong suốt mấy lời đề tặng của thính giả gửi về coi có ai tặng mình cái gì không. Đương nhiên là không anh chàng nào gửi tặng bản tình ca Pháp cho một cô gái 6 tuổi hết, chúng tôi cùng ngồi rình nghe, tưởng tượng ra những cánh thư tay...
Xong giờ điểm tâm, ba giở tờ nhựt trình số cuối tuần ra đọc, mẹ đi chợ, bà chị tôi vẫn dí tai vô sát loa nghe Nana Mouskouri ca White Rose Of Athens thì tôi lôi đồ chơi ra nghịch một mình, chờ mẹ đi chợ về.
Tôi không đợi quà chợ, nhưng mẹ sẽ luôn về trước 11 giờ một chút để kịp sửa soạn bữa trưa - đó là cách để tôi biết sắp tới chương trình “của tôi” trên sóng radio Chủ nhựt: giờ cải lương và kịch nói truyền thanh.
Chiếc ba-toong của ông hội đồng, đứa con riêng của ông cò, và dĩa bánh ướt Minh Châu
Từ hồi mấy đoàn hát ngày càng đuối về bài bản, các rạp hầu như không được bảo trì mà cứ tự trở nên nhếch nhác một cách bệ rạc. Lần mẹ nhìn thấy một thanh niên dặt dẹo cong queo không biết đang ngủ hay đã chết, chỉ cách chúng tôi vài chiếc ghế là lần cuối bà dắt tôi đi theo coi hát.


Nghệ sĩ Út Trà Ôn và Bạch Tuyết. Ảnh: TL

Con nhỏ út trong nhà, tay vu vơ nghịch mấy món đồ chơi bán quán, nhưng tai cứ hút về tuồng tích vô hình đang phát ra óng ả, như một trò chơi giả đò thảm hại của cơn thèm rạp hát. Con nhỏ vẫn thao láo mở mắt nghịch nghịch mớ đồ hàng xanh đỏ, trong óc hiển hiện rõ ràng từng nét ra bộ, từng nét cau mày, từng môi cười thoa sáp… thậm chí có thể nhìn thấy, trong trí tưởng tượng và ký ức vớt vát mong manh của mình đôi cặp rèm nhung nặng trĩu màu rượu chát rình rang trịnh trọng khi vén lên thành những dợn sóng vỏ sò trong tiếng thoại dẫn từ máy vi âm giới thiệu danh tánh đào kép, hoạ sĩ cảnh trí cho tới thầy tuồng. Dàn hàng phía trước sân khấu, quây lại sau bức vách bằng gỗ nâu, vừa tầm ngồi là dàn nhạc có cả cổ cầm lẫn ban đờn Tây, trên sân khấu, tòn teng những chiếc máy vi âm thả dây từ tuốt trên trần xuống, tính toán theo raccord của từng lớp diễn...
Tuồng phát trên radio thời này vẫn vòng vo Vực thẳm chiều cao với Ngao Sò Ốc Hến, Đời cô Lựu... tôi nghe tới thuộc tuồng thuộc thoại, rành tới từng tiếng những món nữ trang mỹ kí lạch xạch khi Kim Anh mướn thợ bạc làm đánh tráo để đưa tiền cho cô Lựu nuôi con riêng, hay cái tiếng cây ba-toong bằng mây của ông hội đồng dộng cái rầm xuống sân khấu...
Nhà hàng xóm đã chuyển qua tuồng khác, bởi nghe có tiếng anh kép trẻ tới bắt ghen cô nhân tình bán thân làm vợ bé tay tài phiệt. Vài câu buông hờn của người tình trẻ ca xong, giọng nữ trầm châu báu đượm sầu đương kể lể chuyện bà thân sinh lâm trọng bệnh được người ta chở giúp vô nhà thương Đồn Đất...
Châm thêm chút nước vô tộ khổ qua kho xì dầu, miên man thả mình theo lời phân bua của người tình tội lỗi:
Em tưởng người ta tốt nên không ngần ngại nhận sự thi ân bố đức của người ta. Nào ngờ, một buổi tối đi thăm mẹ vừa ra khỏi nhà thương thì gió cuối thu dậy cơn thịnh nộ, xô những cành sao bên vệ đường nghiêng ngửa cho lá vàng rơi trong gió bay khuất giữa màn đêm, và trận mưa cuối mùa ào ạt trùm lên thành phố làm cho con chim nhỏ gãy cánh đoan trinh phải rơi vào vũng lầy tội lỗi của một ông chủ giàu sang thừa của... ử ư... dư... ơ... tiền.
Đêm ấy người ta đem tôi lên lầu cao đòi hỏi một cuộc... ử ư... sang thuyền...
Như một phản xạ đã cài đặt trong ký ức của cô nhỏ mê coi hát hồi nào, đôi bàn tay còn ướt nước rửa rau dợm đưa lên vỗ một tràng tưởng thưởng cho nốt xề mùi mẫn của đào Phượng Liên.
Ắt đây là tuồng Tuyệt tình ca, bản video đời đầu.
Nói tới chuyện cặp sóng thần Hùng Cường - Bạch Tuyết bị chia loan rẽ thúy kéo theo sự sa sút của đoàn hát Dạ Lý Hương, thì Tuyệt tình ca, còn có cái tên phổ cập hơn là tuồng Ông Cò quận 9 đã là vở tuồng ăn khách nhất nhì của gánh này thời còn vinh hiển. Có tên Ông Cò quận 9 là bởi kép Út Trà Ôn vô vai ông cò quá mượt, giàu tự sự với làn hơi sang cả nhứt nhì lịch sử cổ nhạc cải lương Nam bộ, vượt bứt cả nhan sắc đào chính. 


Nghệ sị Út Trà Ôn, Bạch Tuyết, Hồng Nga và Thanh Sang trong Tuyệt Tình Ca. Ảnh: TL

Đây cũng còn là một kịch bản đánh dấu cuộc “chia uyên rẽ thúy” của cặp Bá Nha - Tử Kỳ huyền thoại của sân khấu cải lương là Hà Triều - Hoa Phượng. Hoa Phượng về với đoàn Dạ Lý Hương, kết hợp cùng văn lực của soạn giả Ngọc Điệp viết nên Tuyệt tình ca, với tên gọi thoạt tiên trên bài bản là Người đối diện lương tâm, về sau đổi thành Tuyệt tình ca có lẽ bởi màu sắc diễm tình dễ ăn khách hơn, nhưng cuối cùng, chính cái tên Ông Cò quận 9 mới đi vào lòng khán giả. Lại thêm tiểu tiết ngồ ngộ: ông cò là cảnh sát trưởng quận 9 bởi khi này Sài Gòn chỉ có 8 quận, lỡ trúng ông trưởng ty cảnh sát nào cũng khó sống.
Hẳn nhiên, vở tuồng thoạt tiên thủ diễn vẫn là cặp sóng thần kép đẹp đào thương Hùng Cường - Bạch Tuyết, những bản thu âm băng đĩa thời này còn có kép hài Văn Chung vào vai ông chú tài phiệt dê xồm, về sau được phát thanh rần rộ và mến yêu rộng khắp trên sóng radio Sài Gòn.
Thuở này khi diễn tấu trên sân khấu rạp tuồng, vai người mẹ của đào chính được giao cho đào Hồng Nga bởi bà giỏi diễn xuất, nhưng quả tình khi lên sóng radio, phải cái làn hơi ẩn nhẫn ngậm ngùi của Sầu nữ Út Bạch Lan mới thấm thấu tâm can thính giả hình ảnh bà giáo già nửa thanh quý trong cảnh cơ hàn cô lẻ: Đây, bộ bà ba lụa lèo mà chồng tôi bận hai mươi năm về trước. Lượt sau cùng ảnh bận là buổi tối mà sáng ra ảnh ra bến Mỹ Thuận để về tỉnh Mỹ Tho...
Nhưng đó lại là chuyện của hồi nẳm nằm năm, tức là thời còn nhà tuồng rạp hát, chứ tới thời của tôi, dù kép lão Út Trà Ôn vẫn sắm vai ngon lành ngọt xớt, nhưng những phiên bản quay video để đáp ứng món phương tiện tiêu khiển mới của thị dân đã khiến đào kép trân mình ca nhép để dí kịp tốc độ thoại từ của bản thâu âm, nên nét diễn lơi lạt lọng cọng ít nhiều.
Những cuốn băng video thời cả xóm coi chung một đầu máy VCR, thị dân tập tành xoay xở giữa những khái niệm hệ PAL, SECAM với NTSC, tưởng như kịp thời thỏa đáp cái cơn thèm được quanh năm suốt tháng vừa nghe tiếng vừa coi hình đào kép phục trang phấn sáp tân thời, cảnh trí thật chớ không còn là phông nền tuồng hát, nửa như ciné, nửa như kịch truyền hình. Nhưng dường như cũng chính sự xuất hiện của băng hình cải lương là cú kết liễu giáng lên những rạp hát cải lương heo hút cuối cùng của thủ phủ văn nghệ ca diễn Sài Gòn.
Và đó cũng là thời kỳ tôi, khi này đã là một nữ sinh trung học, đứng bần thần nhắm mắt tưởng tượng ra khung cảnh rạp tuồng khi nghe chương trình cải lương trên radio Chủ nhật.
Về sau tuồng Tuyệt tình ca còn được dựng lại nhiều lần trên phiên bản video, cả trong nước lẫn hải ngoại, với đào Phượng Liên thủ diễn cả vai bà mẹ và cô con gái.



Về sau phiên bản video nội địa được phục dựng, với Phương Hồng Thủy, Thanh Vi, Hoàng Tuấn, Thanh Hằng, Phương Quang, hay phiên bản DVD với Thanh Thanh Tâm, Tuấn Châu, Văn Chung, Ngọc Đáng...
Khi này, chuyện đi coi hát đã thành cổ tích, và radio chỉ còn thịnh ở những khu công nghiệp mua vui cho mấy cô cậu công nhân xa xứ hoặc mấy bác tài xế đường trường nổi cơn hoài cổ...
Bữa nọ kể lại chuyện này cho anh bạn đạo diễn trẻ Leon Quang, anh bạn Việt kiều bao năm vẫn vấn vương ám ảnh hồi ức rạp hát Minh Châu gần khu giáo xứ Bùi Phát. Đây là một trong những rạp hát sau cuối được “chuyển hệ” thành rạp ciné, sau này cũng đập bỏ không còn dấu tích. Có lẽ tàn dư cuối cùng là tiệm cơm bình dân ở lề hè đối diện còn giữ tên gọi Minh Châu như tuyệt vọng nhắc nhở di tích nền văn minh ca diễn một thời.
Đến giờ, tiệm nọ dời qua vài căn, “chuyển hệ” sang bán... bánh ướt, tên gọi Minh Châu vẫn còn, nhưng có lẽ đã trở nên tối nghĩa với những thị dân trẻ của Sài Gòn.


Nghệ sĩ Út Trà Ôn trong một vai diễn.Ảnh: TL

Cuộc hấp hối sau cùng được hoàn tất bằng một vật thể mới toanh xây bằng đá ốp lạnh lẽo, cửa sắt đóng kín ngày đêm như một nhà mồ vô cảm gọi là Nhà hát Trần Hữu Trang.
Cái nhà mồ nọ từ khi khởi dựng cho tới nay vẫn không nhiều lần mở cửa.
Bữa hát sau cuối ở rạp tuồng ọp ẹp đường Nguyễn Thái Bình đã phải mỏi mòn chờ đợi đủ khách đặt vé mới dám quy tụ đào kép dựng tuồng.
Họ đã không đợi chờ được.
Số vé vĩnh viễn không đủ cho suất hát sau cùng.
Nay nơi nọ đã thành hội sở tập tành cho đoàn ca múa nhạc Bông Sen, vài tấm poster cải lương tuồng cổ còn dựng chỏng chơ trên lối bãi xe ra vào.
...
Nhà hàng xóm đã tắt mấy link cải lương chắc tìm coi trên internet để mở tivi. Tiếng nhạc hiệu quen thuộc rộn ràng của mấy TV show ăn khách ùa vào căn vườn trưa đứng gió. Tôi tắt bếp, khép cửa sổ gian bếp chận lại tiếng ồn ào giật gân thời thượng nọ, rồi thở dài, như người gác-dan cuối cùng nào đó đã từng thở dài khi kéo đôi tấm rèm nhung của vở tuồng sau cuối, tôi tiễn chính mình khỏi rạp hát riêng tư của trí tưởng tượng ngày thơ. 
Trác Thúy Miêu

 Nguồn: http://nguoidothi.net.vn/nhung-rap-tuong-cua-hoi-uc-truyen-thanh-10286.html

Thứ Năm, 2 tháng 11, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                   1271. Rạp Palace đường Trần Hưng Đạo ngày xưa và giờ đây.


                   1272. Biệt thư ông bà Ưng Thi góc Hồng Thập Tự - Duy Tân ngày xưa và giờ đây.


                   1273. Một đoạn đường Nguyễn Trãi năm 1968 và hiện nay.


                   1274. Giao lộ Chi Lăng - Nguyễn Văn Học ngày xưa và giờ đây.


                   1275. Góc Võ Tánh - Cách Mạng 1/11 ngày xưa và giờ đây.


                   1276. Khách sạn Rex qua hai thời kỳ.


                   1277. Một đoạn đường Đề Thám năm 1968 và hiện nay.


                   1278. Giao lộ Pasteur - Thống Nhất năm 1969 và hiện nay.


                   1279. Ngả tư Lê Văn Duyệt - Phan Thanh Giản năm 1963 và hiện nay.


                   1280. Đi tới một chút là ngả tư Hồng Thập Tự - Công Lý ngày xưa và hiện nay.


Nguồn Tim Doling, Trung Ngo, Paul Blizzard

Chủ Nhật, 29 tháng 10, 2017

Sài Gòn chuyện đời của phố:

Cái ti vi Denon và truyền hình nửa thế kỷ trước



Một cửa hàng bán ti vi ở Sài Gòn trước 1975 - Ảnh: T.L


Khi ba mở ti vi trong thùng ra, anh em tôi hét lên vang xóm và lập tức trẻ con trong hẻm chạy đến ngay, bu đầy cửa cái và cửa sổ.
Đây là cái ti vi thứ hai của xóm mà ba tôi mua với giá 5.075 đồng tiền lúc đó, mua lại của một người quen đang cần tiền bán gấp. Trước đó, chỉ có nhà dượng Hai Mỹ, một ông chủ sự (trưởng phòng) tại Air VN làm việc ở sân bay Tân Sơn Nhất mới mua nổi.
Đến giờ, tôi vẫn nhớ những chương trình thật hay của Đài truyền hình Sài Gòn trong suốt tuổi thơ của mình. Đó là chương trình ca nhạc thiếu nhi Tuổi xanh của kịch sĩ Kiều Hạnh, chương trình Quê ngoại đậm đà tình quê hương của nhạc sĩ Bắc Sơn. Về ca nhạc có chương trình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ với nhạc kịch Ả đào say, ban hợp ca Thăng Long với các ca khúc Ly rượu mừng, Ngựa phi đường xa... Cải lương thì ban Dạ Lý Hương, ban Thanh Minh - Thanh Nga... Xem qua đài Mỹ thì có các phim Wild wild west, Combat, Lạc trong không gian, Lỗ tai lừa... Thời sự chiến tranh hay các chương trình của người lớn thì lứa chúng tôi còn nhỏ nên không màng tới.
Sắm ti vi trở thành niềm mơ ước của nhiều gia đình miền Nam. Nguyệt san Thời Nay tả lại chuyện này: “Máy truyền hình đã xuất hiện tại VN, lần đầu tiên, năm 1966. Một chiếc Denon, 12 inches, giá 16.500 đồng, 19 inches: 30.000 đồng... Mặc dù kỹ thuật còn lỉnh kỉnh, như: vô tuyến truyền hình (VTTH), chương trình cao su, hát nói nhiều hơn hình ảnh, ti vi - một danh từ mới - đã được “khán thính giả” VN chiếu cố kỹ. Nhà nhà đều có ti vi. Ai không có thì đi coi cọp. Ăng ten mọc như mắc cưởi, hướng loạn trên các mái nhà, nhất là ở các tỉnh. Chương trình được hâm mộ nhất là... cải lương và... đài Mỹ. Batman xuất hiện khắp hang cùng ngõ hẻm. Lúc đó điện còn yếu, mỗi nhà một survolteur cho ti vi”.
Phát sóng truyền hình từ... máy bay
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, người Mỹ thiết lập hệ thống vô tuyến truyền hình cho quân đội của họ tại VN. Đồng thời họ giúp thành lập một đài truyền hình và đào tạo chuyên viên VN để tự điều hành các hoạt động.
Năm 1966, chính phủ VNCH khánh thành đài vô tuyến truyền hình đầu tiên, đồng thời thành lập Nha VTTH VN đặt tại Trung tâm điện ảnh. Nhiệm vụ của Nha là hằng ngày cung cấp các chương trình cho Đài VTTH Sài Gòn trên băng tần số 9.
Cần nhắc lại, trước đó, từ tháng 1.1966 đến tháng 12.1967, hệ thống VTTH Sài Gòn chỉ có một phim trường rất nhỏ tại Trung tâm điện ảnh số 15 Thi Sách, Sài Gòn. Trong thời gian này, các chương trình kể cả tin tức đều được thu vào băng từ (video tape) rồi được chuyển lên hai máy bay Super Constellation để phát theo hệ thống Flying station, vì thế hình ảnh thường bị rung, mờ, không rõ.
Buổi truyền hình đầu tiên phát vào ngày 29.1.1966. Trong buổi phát, máy bay vận tải Super Constellation bốn động cơ đặt tên là Ô-xanh 2 bay ở độ cao ổn định là 3.150 m. Mỗi tối máy bay này chở hàng tấn máy móc rời phi trường Tân Sơn Nhất lên tới độ cao nhất định tại một địa điểm phía đông nam Sài Gòn khoảng 32 km rồi từ đó bay theo một lộ trình không thay đổi, lặp lại mỗi đêm với tốc độ ổn định là 271 km/giờ. Máy bay bay suốt bốn giờ liên tục từ 19 giờ đến 23 giờ mới hạ cánh lại Tân Sơn Nhất. Từ 20 giờ máy bay phục vụ cho chương trình truyền hình thứ nhì loan tin và giải trí cho quân đội Mỹ đến 23 giờ. Trong máy bay có hai máy truyền hình mạnh 2.000 kW, hai máy thu hình và tiếng vào băng, hai hệ thống kiểm soát âm thanh, hai hệ thống vô tuyến điện ảnh dùng phim 16 ly. Các làn sóng điện đem theo hình ảnh và âm thanh có thể được tiếp nhận tới các nơi xa Sài Gòn như Campuchia (cách 120 km), Đà Nẵng (608 km), Cà Mau (206 km). Tuy nhiên Sài Gòn và tỉnh lân cận mới tiếp nhận hoàn hảo.
Vào khoảng cuối năm 1967, hệ thống này được mở rộng hơn, hai máy bay Super Constellation được thay bằng máy bay Blue Eagle. Đến tháng 3.1968, khi đài truyền hình mới đã được xây xong tại số 9 Hồng Thập Tự (nay là trụ sở Đài truyền hình TP.HCM) thì nhờ có trụ phát tuyến cao nên hình ảnh được rõ ràng, không còn mờ rung như khi phát hình bằng máy bay nữa. Từ đó các chương trình đầy đủ và phong phú hơn.
Năm 1968, khi xảy ra cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, ba tôi đưa ti vi vào phòng trong. Cả nhà chui xuống bộ ván dày có chất bao cát phía trên để tránh đạn pháo và ló đầu ra theo dõi màn hình ti vi đang chập chờn. Tôi không nhớ gì về chương trình truyền hình lúc đó nhưng ti vi vẫn có ca nhạc có lẽ được thu trước và tin chiến sự đang xảy ra trong thành phố.


Quảng cáo tivi - Ảnh: T.L



Tivi trong phim trường - Ảnh: T.L



Dấu ấn không phai mờ
Thời đó, hầu hết các ca sĩ được yêu cầu nghiêm ngặt trong trang phục, đa số nữ ca sĩ bận áo dài khi ca hát hay diễn kịch. Nhiều vở kịch phản ánh rõ đời sống của người dân nghèo thành thị trong hoàn cảnh tao loạn chiến tranh, những cảnh đời bi đát và những nhân vật cố chống lại sự tha hóa trong đạo đức như Dưới hai màu áoLá sầu riêng, Tấm lòng của biển, Con gái chị Hằng... làm rớt nước mắt từ già đến trẻ. Có lẽ đó chính là những dấu ấn tốt đẹp không phai mờ mà người Sài Gòn còn nhớ về một thời xem truyền hình trước kia.
Phạm Công Luận
Trích từ Sài Gòn - Chuyện đời của phố phần 2 do NXB Văn hóa- Văn nghệ TP.HCM và Phương Nam Book ấn hành
(Nguồn: Thanh niên)


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...