Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017


CÓ THỂ CHÚNG TA CHƯA BIẾT HẾT



18. CUNIAC.
Nẳm ở trung tâm chợ Bến Thành, nhà ga, đường xe tramway, đầu đại lộ de la Somme, Văn phòng sở hỏa xa, đầu đại lộ Bonard.
Quảng trường Cuniac có cùng lúc chợ Bến Thành hình thành. Được khởi công từ  năm 1912 và hoàn thành năm 1914 và được mở cho công chúng vào hạ tuần tháng ba năm 1914.



Xem thêm:                         QUẢNG TRƯỜNG EUGÈNE CUNIAC
QUẢNG TRƯỜNG DIÊN HỒNG
QUẢNG TRƯỜNG QUÁCH THỊ TRANG

24/02/2016


Eugene Baptiste Francois CUNIAC sinh ở Lalinde (Dordogne) ngày 16 tháng 3 năm 1851, bản địa cũ của Quercy.
Ngày 26 tháng 12 năm 1883, ông đến ở Nam kỳ với chức danh là thẩm phán chủ tọa tòa ở Châu Đốc. Năm 1885, ông rời hệ thống tư pháp vào giữa tháng 4. Cùng năm đó, ông được bổ nhiệm làm cố vấn thuộc địa và ông trở thành Phó Chủ tịch.
ông tham gia vào tòa thị trưởng và bốn lần bầu làm thị trưởng của thành phố: từ ngày 23 tháng 11 năm 1890 đến ngày 09 tháng 12 1891; từ ngày 01 tháng 5 năm 1892 đến 26 tháng 4 năm 1895. Vào thời điểm đó, ông xích mích với Paul Blanchy (cuộc tranh cãi này sẽ kéo dài trong hai năm) và ông đã từ chức ủy viên hội đồng thuộc địa và ủy viên hội đồng Thành phố. Ông lại trở thành thị trưởng trong thời gian từ 14 tháng 1 năm 1902 đến ngày 05 tháng năm năm 1906 và sau đó, từ ngày 14 tháng năm năm 1914 đến ngày 23 tháng 1 năm 1916. Ông mất tại Nice.


19. FORAY
Phần mở rộng của đường Catinat giữa nhà hát thành phố với quảng trường FrancisGarnier.
Quảng trường này vẫn không mang một cái tên nào. Cái tên Augustin FORAY được đặt sau một sự lộn xộn. Viên quan chức hành chánh vùng Sài Gòn – Chợ Lớn yêu cầu trong bức thư số n° 1-S. A. ngày 11 tháng 1 năm 1935 rằng cái tên của vị cựu thị trường này được đặt quảng trường phía sau nhà hát thành phố. Nhưng hội đồng thành phố, trong phiên họp ngày 27 tháng 2, trả lời rằng đề nghị này là “thời điểm mất của ông ta còn quá cận” để chấp nhận cho vinh dự này. Tuy nhiên, ngày 16 tháng 8 cùng năm, một ủy viên hội đồng đáp nhận lời đề nghị này bằng thư. Trong khi vị thị trưởng vắng mặt, đệ nhất phó thị trưởng đưa lá thư cho hội đồng và yêu cầu có ý kiến về việc đặt tên FORAY cho quảng trường đã có của nhà hát  và lời yêu cầu được chấp nhận.



Vị trí quảng trường Foray được đề nghị lần đầu.


Bản đổ 1943



Bản đồ 1954

Augustin FORAY sinh Lyon (Rhône) ngày 19 tháng 5 năm 1869. Ông là luật sư biện hộ ở Sài Gòn và tham gia làm chính trị. Ra ứng cử chức ủy viên hội đồng thuộc địa và ủy viên hội đồng. Ông tập sự thị trưởng với chức danh đệ nhị phó thị trưởng từ 9 tháng 5 đến 26 tháng 7 năm 1906 rồi thành thị trưởng từ ngày 10 tháng 8 năm 1916 đến ngày 14 tháng 6 năm 1922. Ông mất ở Hà Nội ngày 23 tháng 12 năm 1932.


20. JOFFRE. — Maréchal
Nằm trong trục của đường Catinat và nhà thờ Đức Bà tính luôn một phần các con đường Blancsubé, Garcerie và  một phần Larclause, Testard.
(Ghi chú: Đường Catinat lúc xưa khi chưa có nhà thờ Đức Bà kéo dài qua con đường Blancsubé và Garcerie)
Vòng xoay này khi xưa có một đài nước cung cấp cho thành phố. Nó đã bị phá hủy vào năm 1921 và một quảng trường đã hình thành và tên của nó là quảng trường du Château-d'eau. Nhưng rồi cũng năm 1921, tên quảng trường Maréchal Joffre đã thay thế tên cũ. Phải thực hiện gấp vì theo lời đề nghị của hội đồng thành phố và được sự chấp thuận của toàn quyền trước khi viên thống tướng này tới Sài Gòn.
Thống tướng Joffre tới Sài Gòn ngày 9 tháng 12 năm 1921.
Năm 1927, tượng đài tưởng niệm các binh sĩ hy sinh trong trận 1914 – 1918 được dựng lên ở trung tâm quảng trường và được khánh thành ngày 11 tháng 11 năm 1927.



Xem thêm:        

Những công trình trong ký ức

Đài nước đầu tiên của Sài Gòn
                                             Quảng trường Thống chế Joffre            

07/02/2016

                                               Những công trình trong ký ức
Đài chiến sĩ trận vong
08/02/2016


Joseph Jacques Césaire Joffre (12 tháng 1 năm 1852 - 3 tháng 1 năm 1931) là Thống chế Pháp gốc Catalan, Tổng tham mưu trưởng Quân đội Pháp từ 1914 đến 1916 trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Sau khi cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, vào tháng 8 năm 1914, quân Pháp dưới sự thống lĩnh của ông đã liên tiếp bị quân Đức đánh cho tơi tả, đưa nước Pháp đến bờ vực thảm họa. Tuy nhiên, đến tháng 9 năm 1914, ông đã lập nên chiến công tuyệt đỉnh của mình Trận sông Marne lần thứ nhất, một trận ác chiến bất phân thắng bại về mặt chiến thuật nhưng lại là chiến thắng quyết định về mặt chiến lược của Liên quân Anh - Pháp. Qua đó, ông trở thành một vị anh hùng dân tộc, là vị tướng lĩnh Pháp đầu tiên đánh thắng được người Đức trong thế kỷ thứ XX. Thậm chí nhân dân Pháp còn tôn vinh ông là "Cha Joffre" (Papa Joffre) sau thắng lợi vẻ vang này.


Maréchal Joffre 

21. PIGNEAU DE BÉHAINE
Nằm trước nhà thờ Đức Bà.
Quảng trường này là sự nối tiếp của quảng trường Đồng hồ lập ra bởi các đô đốc vào thời gian đầu chiếm đóng. Nhưng quảng trường Đồng hồ chỉ kéo dài tới đường La-Grandière.
Nhà thờ Đức Bà được xây dựng vào năm 1877 còn quảng trường thì đã có trước thời gian đó. Hình dạng của nó thay đổi qua nhiều lần. Đầu tiên là một khu vườn nhỏ rồi lại bị dẹp bỏ rồi cuối cùng năm 1893 thì lại khôi phục.
Năm 1920, quảng trường de la Cathédrale được đổi lại là quảng trường Pigneau-de-Béhaine.



            Xem thêm:                        NHÀ THỜ ĐỨC BÀ
                                                             24/02/2015

Giám mục Bá Đa Lộc Bỉ Nhu hay Bách Đa Lộc (còn gọi là Cha Cả, nguyên tên là Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine, thường viết là Pigneau de Behaine (Pi-nhô đờ Bê-hen); sinh 2 tháng 2 năm 1741 - mất 9 tháng 10 năm 1799) là một vị giáo sĩ người Pháp được Nguyễn Phúc Ánh trọng dụng trong việc lấy lại quyền bính từ tay nhà Tây Sơn vào cuối thế kỷ 18. Ông được phong làm giám mục hiệu tòa Adran nên cũng thường được các sách sử gọi là Giám mục Adran.


Pigneau de Behaine

22. RIGAULT DE GENOUILLY.
Quảng trường hình bán nguyệt ngăn cách sông Sài Gòn với cảng Argonne và đóng khung một bên với trại lính hải quân và một bên là trụ sở cảnh sát quận 1.

Quảng trường Rigault-de-Genouilly đầu tiên có tên là quảng trường Rond-Point cho tới khi người ta đặt bức tượng của vị đô đốc này (1879). Đây là khu vực lịch sử. Nó đã được vạch ra vào thời kỳ đầu chinh phục Sài Gòn làm tâm điểm đề xây dựng một thành phố kiểu châu Âu. Nhiều con đường đổ về đây nhưng có một con đường chánh, cùng với đường Pnom-Penh nối Sài Gòn với vùng phụ cận. 


          
            Xem thêm: Đường phố, quảng trường nổi tiếng của Sài Gòn: 
Quảng trường Mê Linh
12/01/2016


Charles Rigault de Genouilly , (sinh ngày 12 tháng 4 năm 1807 , Rochefort , Pháp-chết ngày 4 tháng 5 năm 1873 , Barcelona ), đô đốc, người khởi xướng cuộc xâm lược Pháp vào năm 1858 và cuộc chinh phục Nam kỳ.


Charles Rigault de Genouilly

                                                                   (Còn Tiếp)

Thứ Bảy, 19 tháng 8, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                      1201. Bên ngoài khác sạn Plaza BEQ  số 135 Trần Hưng Đạo ngày xưa và hiện nay.



                      1202. Biệt thự của giám đốc USAID số 12 Đoàn Công Bửu ngày xưa và hiện nay.


                      1203. Trường Gia Long trong kỳ bầu cử năm 1967 và hiện nay.


                      1204. Đường Phan Chu Tring bên hông chợ Bến Thành xưa và nay.


                      1205. Ngả tư Pasteur - Hồng Thập Tự ngày xưa và hiện nay.


                      1206. Building Catinat góc Tự Do - Gia Long ngày xưa và hiện nay.


                      1207. Đường Trương Công Định băng qua vườn Tao Đàn xưa và nay.


                      1208. Tòa Đô chánh năm 1965 và hiện nay.


                      1209. Trường Sao Mai kế chùa Vĩnh Nghiêm khi xưa và cùng vị trí ngày nay.



                      1210. Căn nhà số 53 - 55 đường Tự Do ngày xưa và hiện nay.



Nguồn Tim Doling, Trung Ngo, Thanh Nguyen, Paul Blizzard

Thứ Năm, 17 tháng 8, 2017

CÓ THỂ CHÚNG TA CHƯA BIẾT HẾT


Số phận long đong của tượng Gambetta

Một năm sau khi Léon Gambetta mất tại Pháp (1882), chính quyền thuộc địa tại Sài Gòn đưa ra quyết định cho dựng một tượng đài để tưởng niệm ông. Vị trí được chọn nằm tại giao lộ Đại lộ Norodom và Pellerin.
Tượng đài gồm 3 khối tượng: Gambetta ở vị trí cao nhất, vai phải hướng về dinh Norodom (Dinh toàn quyền Đông Dương), tay phải để trên nòng đại bác đặt dưới chân theo đúng thực tế ngoại giao pháo hạm của Pháp lúc ấy; tay trái chỉ về hướng thành Gia Định (thành Phụng 1835) vừa bị Pháp chiếm trước đó 24 năm (ngày 17-2-1859).
Mặt tượng đài Gambetta nhìn về phía sông Sài Gòn; lưng quay về cuối đường Pasteur hiện nay.(Tượng đài Sài Gòn xưa có số phận bi hài nhất – Tuổi Trẻ online)
Ngày 4 tháng 5 năm 1889 dưới sự có mặt của Thống đốc Étienne Richaud và Thị trưởng thành phố Sài Gòn Roch Carabelli, tượng đài Gambetta được khánh thành.




            Bức tượng này là bản sao của bức tượng tại quê nhà của Léon Gambetta ở Cahors là của nhà điêu khắc Alexandre Falguières (1831-1900) và phần chân đế là của kiến trúc sư Paul Pujol (1848-1926).



Tượng đài Léon Gambetta tại quê nhà Cahors, Pháp

           Theo bài viết của Tim Doling, thì có 2 bức tượng của Gambetta: một dựng tại giao lộ như trên đã nói và một cất vào kho. Thế nhưng không biết số phận bức tượng thứ hai đi đâu.
Nnhưng ông Léon Gambetta là ai mà người Pháp phải dựng tượng để tưởng niệm:
Léon Gambetta sinh ngày 2/4/1838 tại Cahors và mất ngày 31/12/1882 tại Sèvres (“thọ” 44 tuổi). Ông là một danh nhân chính trị gia Cộng hoà Pháp, làm Thủ Tướng (kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao) từ 1881-1882, vào khoảng thời gian Pháp sắp bắt đầu đặt nền đô hộ trên đất nuớc VN. Ông cũng thuộc phái các chính trị gia ủng hộ việc xâm chiếm mở rộng thuộc địa cho Pháp quốc, do công trạng này mà Gambetta đã được dựng tượng tại Sài Gòn là thủ phủ của Nam kỳ là nơi đã bị Pháp chiếm sớm nhất. Xem qua phần tiểu sử sơ lược, chúng ta cũng biết lý do tại sao người Pháp dựng tượng của ông. (Wikipedia)


Léon Gambetta


Đến năm 1912-1914, chợ Bến Thành cũ trên đại lộ Charner (đại lộ/phố đi bộ Nguyễn Huệ hiện nay) bị giải tỏa. Hội đồng thành phố lúc bấy giờ quyết định Toàn bộ khu đất chợ cũ được cải tạo thành quảng trường, đặt tên là Quảng trường Gambetta. Tất nhiên nhóm tượng đài Gambetta từ ngã tư Norodom - Pellerin phải dời về đây, lấy chỗ cho xe cộ Sài Gòn, nhất là xe hơi vốn lúc này đã đông đúc hơn đi lại cho thuận tiện.

Nhóm tượng đài Gambetta đặt ở gần phía cuối Quảng trường Gambetta, nhìn ra đại lộ Charner; lưng hướng về đường Hồ Tùng Mậu hiện nay (bản đồ Sài Gòn 1928 ghi là đường Georges Guynemer). Tay trái chỉ về hướng đường Ngô Đức Kế (bản đồ Sài Gòn ghi đường Vannier); tay phải  hướng về đường Phủ Kiệt (hiện là đường Hải Triều). .(Tượng đài Sài Gòn xưa có số phận bi hài nhất – Tuổi Trẻ online)



Nhưng số phận của bức tượng này cũng không được yên, chỉ ở được 10 năm thì người Pháp quyết định xây Kho bạc tại vị trí này vào năm 1925. Thế là bức tượng lại một lần nữa phải dời về vường Maurice Long (Tao Đàn sau này).



Cám cảnh số phận long đong của tượng đài này, người Sài Gòn xưa có câu ca dao: Trên Thượng thơ bán giấy (ly hôn-NV) - Dưới Thủ Ngữ treo cờ - Kìa Ba (tượng đài Gambetta-NV) còn đứng chơ vơ - Nào khi núp bụi, núp bờ - Mủ di đánh dạo bây giờ bỏ em.
Theo Vương Hồng Sển – trong Sài Gòn năm xưa: "Chánh phủ Pháp muốn thâu dụng số đồng dùng vào chiến tranh, sai thợ nấu lão Gambetta, thì hỡi ôi! Thân lão là ersatz, đồ đồng giả, không dùng được..."
Thế mới biết chuyện rút ruột công trình tượng đài không phải là chuyện mới đây mà nó đã có từ thời Pháp thuộc.
 Còn cái đế tượng thì thời sau người ta dở bỏ tại bờ rào giáp với hội Kỵ mã. Ngày xưa tụi tôi thường vào chơi trong công viên Tao Đàn và lấy đế tượng này để kê xe đạp. Còn bây giờ không biết nó có còn không.

Đế chân tượng Gambetta bên góc phải của hình
 trong công viên Tao Đàn giáp với hội Kỵ mã.

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2017

Bài này được trích dịch từ chuyên đề GUIDE HISTORIQUE DES RUES DE SAIGON của ANDRÉ BAUDRIT.


LAI LỊCH NHỮNG TÊN ĐƯỜNG ĐẦU TIÊN
CỦA THÀNH PHỐ SÀI GÒN

(Phần tiếp theo)




OHIER. Hướng Đông Đông Bắc – Tây Tây Nam đường ngắn nối đại lộ Charner (trước tòa justice de paix) với đường Pellerin.
Đầu tiên là đường số 9. Theo đề nghị của đô đốc DUPRÉ, cái tên OHIER được đặt cho con đường này vào ngày 18 tháng 7 năm 1871.



Bản đồ 1878


Bản đồ 1958 là đường Tôn Thất Thiệp

Marie, Gustave, Hector OHIER sinh ở Mondoubleau (Loir-et-Cher) ngày 5 tháng 8 năm 1814. Ông vào hải quân năm 1830. Là thiếu uý ngày 20 tháng 10 năm 1831 và chấm dứt sự nghiệp khi đang là chuẩn đô đốc.
Ngày 4 tháng 4 năm 1868, ông đến Nam kỳ để thay thế cho đô đốc DE LA GRANDIÈRE đi về Pháp. Ông mất tại Saint-Louis par Fayence (Var) ngày 30 tháng 11 năm 1871.


Hector OHIER

OLIVIER. Đường Victor. Hướng Bắc – Nam, đường ngắn nối thẳng góc với đường Vincensini phía nam và đổ ra đường Eudel phía bắc (khu vực Khánh Hội).
Đường này dài 30 mét nằm trên mảnh đất lấp vào năm 1928. Tên đầu tiên của nó là Victor-Olivier vào ngày 3 tháng 5 năm 1929. Nhưng thành phố Sài Gòn đã có một con đường tên Olivier từ năm 1865: đó là con đường dọc theo con kênh cùng với con đường khác là Pellerin. Khi con kênh này được lấp vào năm 1870, con đường Pellerin chiếm luôn tên của con đường này.



Bản đồ 1943


Bản đồ 1958 là đường Lê Văn Linh

Victor, Joseph, Cyriaque, Alexis OLIVIER DE PUYMANEL còn gọi là đại tá OLIVIER. (1768 tại Carpentras- 1799 tại Malacca), còn có tên là Nguyễn Văn Tín là một sĩ quan công binh và hải quân, một nhà phiêu lưu người Pháp, người có một vai trò khá quan trọng trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò chủ chốt trong việc người Pháp giúp hiện đại hóa lực lượng của Nguyễn Ánh.
Olivier de Puymanel là một người tình nguyện hạng hai trên chiến thuyền Pháp Dryade. Năm 1788 ông bị bỏ rơi ở Pulo Condor. Sau đó ông được Giám mục Pigneau de Behaine vận động tham gia vào lực lượng tình nguyện của người Pháp giúp Nguyễn Ánh. 
Olivier de Puymanel là người giám sát thi công tòa thành Bát Quái theo thiết kế của kỹ sư người Pháp Théodore Lebrun.
Ông còn huấn luyện các lực lượng người việt cách thức sử dụng hỏa khí hiện đại và đưa phương pháp tiến hành chiến tranh bộ binh châu Âu vào trong lực lượng của Nguyễn Ánh. Năm 1792, Oliver de Puymanel chỉ huy 600 quân được huấn luyện qua kỹ thuật quân sự châu Âu.. ông còn là người xây dựng Diên Khánh để phòng thủ chống Tây Sơn cùng với Pigneau de Behaine và hoàng tử Cảnh. Năm 1793, ông tham gia vào cuộc tấn công giành lấy Nha Trang của quân Nguyễn.
Puymanel được ghi nhận là đã huấn luyện cho hơn 50.000 quân Nguyễn, còn Jean Marie Dayot thì lo về thủy quân. Kết quả của nó là việc du nhập kỹ thuật quân sự Châu Âu vào Việt Nam.


ORMAY. Đường D’. Hướng Đông Bắc – Tây Nam. Đường ngắn nối với đại lộ Charner và đường Paul-Blanchy.
Đầu tiên gọi là đường de l’Église vì nó đổ ra cây cầu vượt qua kênh Charner tới nhà thờ Immaculée Conception xây năm 1863 về sau là tòa justice de Paix. Tên mới này được đặt theo quyết định ngày 8 tháng năm 1879.



Bản đồ 1872 là đường De l'Eglise


Bản đồ 1898 là đường d'Ormay


Bản đồ 1958 là đường Nguyễn Văn Thinh


Bản đồ hiện tại là đường Mạc Thị Bưởi
 Bác sĩ Marie, Jules, Élie LALLUYAU D'ORMAY sinh 15 tháng 4 năm 1824. Ông vào trường y hải quân ở Toulon năm 1845.
Năm 1861, khi Đô Đốc Charner cùng đoàn tùy tùng của ông tham gia vào cuộc viễn chinh đến Sài Gòn, ông làm trong bộ tham mưu trên chiếc tàu Persévérante với vai trò như bác sĩ phẫu thuật hạng nhất. Ông vẫn ở Sài Gòn cho đến năm 1874, làm giám đốc Sở Y tế tại Nam kỳ mà trước đó là bác sĩ trưởng của hải quân.
Ông rời Sài Gòn trong tháng 8 năm 1874. Ông về Pháp và chuyển đến Toulon nơi ông qua đời ngày 16 Tháng 6 năm 1878.


PAGE. Đường Admiral. Hướng Đông Bắc – Tây Nam nối đường Mac-Mahon với mặt Tây nam của nhà thờ.
Việc vạch ra con đường này là vào năm 1871 và có thể khởi công sau đó ít lâu.tên của nó lúc đó là đường Hong-Kong. Với quyết định ngày 24 tháng 2 năm 1897 tên đường được đổi lại là Amiral-Page.



Bản đồ 1878 là đường Hồng Kông


Bản đồ 1898 là đường Amiral Page


Bản đồ 1958 là đường Hàn Thuyên


Đô đốc PAGE sinh ở Vitry-le-François (Marne) ngày 31 tháng 3 năm 1807. Ông là thống đốc quân sự ở Đông Dương thuộc Pháp . Phó đô đốc trong tháng 8 năm 1861, ông trở về Pháp cùng Charner.



Đô đốc PAGE


PALANCA. Đường thứ cấp nối đường Lafont mặt đông bắc của bệnh viện tới đường Dr. Angier mặt trước thảo cầm viên.
Cái tên này được đặt cho hai con đường. Đầu tiên năm 1865, đô đốc DE LA GRANDIÈRE đặt cho phần tây nam hướng Chợ Lớn của con đường Espagne. Nhưng con đường này lại mang tới ba cái tên: Palanca, Isabelle-Il, Sainte-Enfance. Khi nền cộng hòa được thiết lập tại Pháp thì nó một tên duy  nhất là Espagne. Trong khi đó theo lời đề nghị đã có từ ngày 27 tháng 1 năm 1871, thì đến ngày 26 tháng 8 năm 1897 cái tên Palanca mới thay thế cho tên đường Shanghai.


Bản đồ 1882 là đường Shang Hai


Bản đồ 1898 là đường Palanca


Bản đồ 1958 là đường Nguyễn Trung Ngạn


Don Carlos PALANCA Y GUTTIEREZ sinh ở Valence ngày 24 tháng 3 năm 1819. Ông là một nhà quân sự, ngoại giao người Tây Ban Nha tham gia cùng quân Pháp đánh chiếm Nam kỳ và Sài Gòn.


Don Carlos PALANCA Y GUTTIEREZ



PARENT. — Đường Marcel. Hướng Đông Bắc – Tây Nam. Đường Ngắn nối đường Boresse với đại lộ Kitchener, khoảng giữa đại lộ Galliéni và rạch Bến Nghé.
Con đường lúc trước không có tên và không quan trọng. Tên Marcel PARENT được  đặt vào năm 1920.



Bản đồ 1926


Bản đồ 1958 là đường Phan Văn Trường

Marcel PARENT là con của quan chức hành chánh dân sự ờ Đông Dương. Sinh ở sài Gòn ngày 25 tháng 4 năm 1898. Hy sinh trong trận chiến tranh thế giới.



PASQUIER. Lộ đất Pierre. Hướng Tây Nam - Đông Bắc. Đây là đoạn nối tiếp đại lộ Norodom băng qua thảo cầm viên. Nó ngăn cách bảo tàng Blanchard-de-la-Brosse và đền Souvenir indochinois.




Pierre PASQUIER sinh ở Marseille ngày 25 tháng 1 năm 1876. Ông là Toàn quyền Đông Dương từ năm 1928 đến 1934.


Pierre PASQUIER




PASTEUR. Hướng Tây Bắc – Đông Nam nối đường La Grandière với cảng Argonne (sông Sài Gòn).
Được vạch ra ít lâu sau cuộc chinh phục Sài Gòn với cái tên là đường số 12. Với quyết định của đô đốc DE LA GRANDIÈRE ký ngày 1 tháng 2 năm 1865 thì nó mang tên là đường de l’Hôpital. Ngày 24 tháng 2 năm 1897 nó chính thức mang tên là Pasteur.



Bản đồ 1898


Bản đồ 1958 là đường Đồn Đất

Bản đồ hiện tại là đường Thái Văn Lung


Louis Pasteur (27 tháng 12 năm 1822 - 28 tháng 9 năm 1895), nhà hóa học, nhà vi sinh vật học người Pháp, với những phát hiện về các nguyên tắc của tiêm chủng, lên men vi sinh. Ông thường được biết đến qua những nghiên cứu quan trọng về các nguyên nhân và biện pháp chữa bệnh, và những khám phá đó của ông đã cứu sống vô số người kể từ đó. Ông giảm tỷ lệ tử vong ở người bị bệnh sốt sau đẻ, tạo ra loại vắc-xin đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than. 


Louis Pasteur



PELLERIN. Hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đường dài chạy qua thành phố. Nó bắt đầu từ cảng Belgique trước cầu Messageries maritimes và chấm dứt ở đường Arfeuille.
Đường Pellerin bắt đều từ phầm đất thấp của thành phố. Nó nằm trên một con kênh đã lấp vào năm 1870. Con kênh này nối kênh Gallimard (về sau là đại lộ Charner) với kênh Bến Nghé. Hai con đường bao bọc quanh con kênh này tới năm 1886 có tên là đường số 24. Trong thời gian này, đô đốc DE LA GRANDIÈRE với quyết định ngày 1 tháng 2 năm 1886, đặt tên cho con đường bên trái là đường Pellerin và con đường bên phải là đường Olivier. Sau khi con kênh bị lấp, cái tên Olivier không còn mà thế vào đó là tên Pellerin.


Bản đồ 1870 cho thấy tên hai con đường


Bản đồ 1873 cho thấy con kênh đã bị lấp


Bản đồ 1878 cho thấy con đường chỉ kéo dài tới đường Mois (Phan Đình Phùng)


Bản đồ 1898 cho thấy con đường vươn tới đường Du Marché về sau là Arfeuille


Bản đồ 1958 là đường Pasteur



Đức cha François, Marie, Henri, Agathon PELLERIN sinh ngày 20 tháng 02 năm 1813 tại Locmaria, giáo xứ Saint-Corentin  ở Quimper (Finistère). Ngày 08 tháng 11 năm 1843 cha Pellerin nhận được quyết định đi Đàng Trong.


PHAN-THANH-GIAN. Đường hình vòng cung hướng Đông Tây nối với giao lộ các đường Verdun, La Grandière, Lacote, Frère-Louis cạnh nhà ga với đường Duranton.
Năm 1937, theo lới đề nghị của ông Lê Văn Ngọc là thay đổi con đường Audouit thành đường Phan Thanh Giản. Nhưng lời đề nghị này không được chấp thuận. Đến năm 1939, một nhóm gồm 4 người An Nam nêu đề nghị này một lần nữa là lấy một phần đường Lacote để đặt tên Phan Thanh Giản. Cuối cùng lời đề nghị này được chấp thuận.


Bản đồ 1943



Bản đồ 1958 là đường Ngô Tùng Châu



Bản đồ hiện tại là đường Lê Thị Riêng



Phan Thanh Giản. Danh sĩ, đại thần triều Nguyễn, tự Tĩnh Bá, Đạm Như, hiệu Lương Khê, Ước Phu, biệt hiệu Mai Xuyên, sinh năm 1796 tại Bảo Thạnh, huyện Bảo An, Vĩnh Long (nay là huyện Ba Tri, Bến Tre), tự tử ngày 04-08-1867 tại Vĩnh Long, sau khi Pháp chiếm thành do ông trấn giữ.

 
     
Phan Thanh Giản

                                                                                        (Còn tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...