Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2018


La La 
Direction de l’intérieur – Dinh thượng thơ


Dinh Thượng Thơ tức là tòa nhà direction de l’intérieur (Sở Nội vụ) thời Pháp thuộc, là đề tài tranh luận của người dân Sài Gòn thời gian gần đây. Đây là một công trình có lẽ xuất hiện vào thời kỳ đầu thành lập thành phố Sài Gòn thuộc Pháp tức là vào đầu thập niên 1860. Chúng ta xem phần dưới đây về chức năng của tòa nhà được đăng trên Tuổi Trẻ online:
Dinh Thượng Thơ còn gọi là Bureaux du Directeur de l’intérieur (Văn phòng giám đốc nội vụ, 1863-1891) hay Bureaux du Secrétariat du gouvernement de la Cochinchine (Văn phòng ban thư ký chính phủ Nam Kỳ, 1894-1945) dưới thời Pháp thuộc.

Tòa soạn báo quốc ngữ đầu tiên
Dinh Thượng Thơ là cơ quan đầu não quản lý Nam Kỳ thi hành các nghị định, chính sách của chính phủ, chi thâu tài chánh cho các công sở, trả lương cho các công nhân viên, chi phí cho lễ hội, di chuyển, đi xa công tác, phát hành các công báo về các nghị định, quyết định, lập bản báo cáo hàng năm chi thâu tường trình cho thống đốc và Hội đồng quản hạt.
Tờ Gia Định báo, báo quốc ngữ đầu tiên Việt Nam cũng được phân bố từ dinh Thượng Thơ tới các tỉnh thành, làng xã khắp lục tỉnh.
Thời kỳ có nhiều cải cách và phát triển của Văn phòng giám đốc nội vụ là dưới thời giám đốc Noel Pardon, và Béliard từ năm 1881 với mục đích để tăng nguồn thu ngân sách.
Theo đề nghị của giám đốc nội vụ, năm 1887, thống đốc Filippini ra nghị định 439 (ngày 30-9-1887) thiết lập trạm quan thuế ở đảo Phú Quốc, Côn Sơn và giao cho giám đốc thực hiện (Bulletin officiel de l'Annam et du Tonkin 1887).
Ngoài ra các công ty chính phủ độc quyền như công ty rượu (Régie d’Alcohol), công ty thuốc phiện (Régie d’Opium) cũng đem được nhiều nguồn lợi tài chánh.

Tài trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ đi Pháp
Theo lệnh của thống đốc Nam Kỳ, Văn phòng giám đốc nội vụ ở dinh Thượng Thơ đã tài trợ các nghệ nhân, nghệ sĩ đi qua Pháp triển lãm các sản phẩm Nam Kỳ, văn hóa, công nghệ và trình diễn hát bội ở Hội chợ thế giới Paris năm 1889; trong đó có ông Trương Minh Ký - nhà giáo và nhà văn quốc ngữ trong giai đoạn đầu (tác phẩm Như Tây Nhựt trình kể lại chuyến đi này).
Trước đó, qua thống đốc Nam Kỳ Le Myre de Viliers, văn phòng giám đốc nội vụ đã tài trợ nhà giáo Trương Minh Ký dẫn các học sinh trong đó có ông Nguyễn Trọng Quản (tác giả Truyện thầy Lazaro phiền - tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên), Diệp Văn Cương (sau này giáo sư trường Chasseloup-Laubat) qua Algier du học.
Năm 1894, nghị định của bộ trưởng thuộc địa Pháp Delcassé đổi tên Bureaux du sécrétériat générale (Văn phòng tổng thư ký) thành Bureaux du sécrétariat du gouvernement (Văn phòng thư ký chính phủ) và thuộc quyền trực tiếp của phó soái Nam Kỳ (sau này là thống đốc).
Khi phó soái vắng mặt, toàn quyền Đông Dương có quyền đề nghị với tổng trưởng chỉ định người thay thế (Bulletin officiel du Ministère des colonies, L. Baudoin (Paris), Imprimerie nationale (Paris), 1894).
Năm 1900, đoàn ca tài tử Nguyễn Tống Triều ở Mỹ Tho được tài trợ từ Văn phòng thư ký chính phủ do ông Nguyễn Hữu Vang dẫn qua Paris để dự hội chợ Paris.

Cấp tiền cho các lễ, hội
Một trong những nhiệm vụ của Văn phòng giám đốc nội vụ là báo cáo chi tiêu, thu nhập tài chính trong các bản tường trình hàng năm cho phó soái hay thống đốc và hội đồng quản hạt.
Các tập san báo cáo của văn phòng giám đốc nội vụ cho ta biết nhiều chi tiết về chi tiêu như bảo trì, bổ dụng, trợ cấp cho nhân viên, các hạt, tỉnh, sinh hoạt lễ lạc, hội chợ …
Ban đầu Văn phòng giám đốc đốc nội vụ tự thiết lập và quản lý nhà in chính phủ (Imprimerie imperiale sau là Imperimerie nationale) trên đường Route National (nay là Hai Bà Trưng). 
Nhưng sau này vì tốn kém nên nhà in đóng cửa và khoán lại cho tư nhân in ấn các Tạp chí Nam Kỳ (Bulletin de la Cochinchine) và các công báo.
Văn phòng giám đốc nội vụ ngoài ra còn cấp tiền cho các quận, hạt tổ chức hội trong các ngày lễ (theo Bulletin officiel de la Cochinchine française, Imprimerie nationale, Saigon 1863-1878). Trong các phiên họp của Hội đồng quản hạt, các bản báo cáo về tình hình tài chánh, kinh tế, thương mại, hành chánh ở Nam Kỳ đều phải có.

Nơi cấp bằng sáng chế ở Nam Kỳ
Như đã nói trên, đến cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Văn phòng giám đốc nội vụ được đổi tên là Sécrétariat du gouvernement de la Cochinchine, hàng năm báo cáo hoạt động của ban thư ký được ghi trong các số tập san vẫn còn lưu trữ ở thư viện quốc gia Pháp như sau: Bulletin du Secrétariat du gouvernement de la Cochinchine (Tập san ban thư ký chính phủ Nam Kỳ, 1891, 1905-1945), Bulletin administratif de la Cochinchine (Tập san hành chánh Nam Kỳ, 1902, Imprimerie coloniale)
Ngoài các báo cáo hoạt động của ban thư ký cho chính phủ Nam Kỳ còn có các báo cáo gởi cho toàn quyền Đông Dương được ghi trong báo cáo hằng năm của chính phủ Đông Dương, Bulletin officiel de l’Indochine française (Tập san chính thức của Đông Dương thuộc Pháp) như năm 1889, tập san được in ở nhà in Imprimerie coloniale, Saigon, có phần riêng về Nam Kỳ (Cochinchine) và Cam Bốt (Cambodia).
Ngoài ra Văn phòng ban thư ký chính phủ ở dinh Thượng Thơ cũng đảm nhiệm nhiệm vụ liên quan đến các luật nghị định ở Pháp.
Thí dụ nghị định ngày 13-3-1911 về cấp bằng sáng chế ở Đông Dương đặt cơ quan văn phòng ban thư ký chính phủ Nam Kỳ (dinh Thượng Thơ) là nơi cấp bằng sáng chế ở Nam Kỳ theo luật sáng chế ở chính quốc năm 1844 và 1902.
Các thí sinh học hàm thụ các trường ở Pháp, sau khi thi tốt nghiệp, bằng được gởi từ Pháp đến dinh Thượng Thơ, nơi đây sau khi đăng ký thí sinh đến nhận.
Trong thời chiến tranh Việt Pháp, dinh Thượng Thơ có một thời gian ngắn là dinh của chính phủ Nam Kỳ tự trị của thủ tướng Nguyễn Văn Thinh thành lập và sau 1954 là bộ nội vụ của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Và ngày nay là trụ sở của Sở Thông tin - truyền thông và Sở Công thương.

Dinh Thượng Thơ được xây dựng khi nào?
Tòa nhà dinh Thượng Thơ từ năm 1865 đến 1891 thường được gọi là Hôtel de directeur de l'intérieur (Dinh giám đốc nội vụ). Trên bản đồ chi tiết trong trung tâm Sài Gòn cho thấy trước năm 1882, hình dáng tòa nhà rất khác với tòa nhà hiện nay.
Ngân sách chính phủ vào năm 1881 cho ta biết dinh Thượng Thơ được chính phủ trợ cấp tiền bảo trì và thắp sáng, trước khi đại trùng tu vào năm 1882.
Bản đồ vị trí các công sở ở trung tâm Sài Gòn vào các năm 1870, 1878 và 1882 cho ta biết tòa nhà dinh Thượng Thơ ở góc đường rue Catinat (Đồng Khởi) và rue de Lagrandière (Lý Tự Trọng) có hình dáng như tòa nhà dinh Thượng Thơ trong bản đồ năm 1882 (xem hình 1).
Như vậy tòa nhà dinh Thượng Thơ như ta biết ngày nay là chỉ có từ năm 1882 sau khi đã được xây cất lại.

Ngày nay chúng ta không có một tấm hình nào về dinh Thượng thơ đầu tiên. Trong tấm bản đồ vẽ về thành phố Sài Gòn năm 1881 có hình vẽ sơ sài về dinh này. Chúng ta thấy lúc đó chỉ có dãy nhà nằm bên góc đường La Grandière và Catinat. Điều này có thể giúp cho chứng ta hình dung là dãy nhà xưa nhất trong toàn khối của dinh Thượng thơ về sau (1882).

 


Hình dinh Thượng thơ trong bản đồ vẽ về thành phố Sài Gòn năm 1881.


Lục trong các tài liệu về Sài Gòn Cochinchine chỉ thấy nói sơ sài về dinh này. Như chúng ta được biết con đường Catinat là một trong những con đường xưa nhất của thành phố, chạy dài từ bờ sông Sài Gòn đến khu vực của đường Mayer (Hiền Vương/Võ Thị Sáu). Ban đầu nó là con đường đất hai bên là đầm nước và lau sậy và rừng cây. Về sau người Pháp mới cải tạo lại nhưng trong giai đoạn đầu nó còn nhiều khoảng trống và cây cối rậm rạp. chúng ta xem đoạn văn sau đây được trích từ cuốn Du hành đến Nam Ký (voyage en Cochinchine) của LE DOCTEUR MORICE viết năm 1872:
“À mesure que je m'éloignais du quai, je remarquais que la rue s'exhaussait et que les maisons européennes se multiplient. Vers le haut, je vis à gauche le charmant petit palais du directeur de l'Intérieur, perdu au milieu d'un massif de verdure d'où un grand cerf tendit tout à coup sa tête curieuse pour me regarder. Plus loin, j'aperçus les bureaux, la Monnaie, la Poste. Il est vrai que ces édifices étaient pour la plupart coupés les uns des autres par des terrains vagues plus ou moins étendus, où le bambou, le ricin, les daturas, de grandes lianes et de hautes graminées croissent à l'envi.”
Dịch:
Khi tôi rời khỏi bến tàu, tôi nhận ra rằng con đường đang lên cao dần và những ngôi nhà kiểu châu Âu cũng đang tăng dần. Ở phía đầu đường (Catinat), tôi thấy bên trái một dinh thự nhỏ xinh xắn của giám đốc Sở Nội vụ, nằm khuất ở giữa một mảng cây xanh nơi có một con nai lớn đột nhiên duỗi đầu tò mò để nhìn tôi. Xa  hơn, tôi thấy các văn phòng, sở đúc tiền, tòa bưu điện. Thật ra là những tòa nhà này phần lớn bị chia cắt bởi những lô đất trống nhiều hoặc ít rộng hơn, nơi đó tre, thầu dầu, cà độc dược, dây leo và cỏ cao lớn mọc tràn lan.
Còn về tên gọi của Direction de l'intérieur theo cách của người dân Sài Gòn là Dinh Thượng Thơ thì tới bây giờ cũng không có tài liệu này giải thích. Thứ nhất đã gọi là Dinh thì nơi này là nơi nghỉ ngơi hoặc dùng để tiếp khách của các viên chức cấp cao, thí dụ như dinh Norodom, dinh Sous lieutenant. Thứ hai là từ Thượng thơ đồng nghĩa là chức danh Bộ trưởng thời sau này.
Dinh Thượng thơ thì chẳng dính lìu gì tới dinh Ông Thượng (Lê Văn Duyệt) xưa kia nằm bên đường Norodom tức là khu vực của bộ Ngoại giao VNCH giờ là sở Ngoại vụ thành phố. Cả trong bài viết của Vương Hồng Sển cũng không có nói về gốc tích của chữ Thượng thơ này cả.
Có một cách giải thích mà theo tôi là thích hợp có nghĩa là dân Sài Gòn xưa đều gọi các quan  lớn bằng từ “Ông Thượng” hay “Quan Thượng” cho nên nơi nghỉ ngơi hay làm việc của quan lớn đều gọi là ‘Dinh quan thượng lại” hay “Dinh lại bộ thượng thơ” để chỉ Direction de l'intérieur. Như vậy theo tôi nghỉ chữ “thơ” ở đây có thể là chữ đệm chứ nó không có liên quan gì tới chữ “thượng thơ” gốc.




La Direction de l'Intérieur - Dinh Thượng thơ Nội vụ góc Tự Do-Gia Long,
 trước 1975 là trụ sở Bộ Kinh Tế


Bureaux du gouvernement de la Cochinchine


Les Bureaux du Secrétariat du Gouvernement



La Direction de l'Intérieur


La Direction de l'Intérieur - Dinh Thượng thơ Nội vụ góc Tự Do-Gia Long


Le Haut de la rue Catinat 


Ngã tư Catinat - Lagrandière


La Rue Lagrandière


La Direction de l'Intérieur


Một góc của dinh Thượng thơ (Bộ Kinh Tế) thời VNCH


Hình ành nguồn Mạnh hải Flick.

Thứ Ba, 8 tháng 5, 2018


Về một ngôi nhà sắp bị đập!

Mấy ngày nay, tôi hết hồn vì tin ngôi nhà ấy sắp bị đập bỏ trong kế hoạch mở rộng UBNDTPHCM. Đó là ngôi biệt thự mang số 59-61 Lý Tự Trọng.

Dinh Thượng thơ –
 tòa nhà được xây theo kiến trúc thuộc địa Pháp đã có hơn 120 năm tuổi.


Tôi hết hồn vì lòng chưa thật hết bàng hoàng khi ngó thấy cái chết của khu Ba Son, nơi từ thế kỷ 18 là xưởng đóng tàu bè của Nguyễn Ánh.
Chưa hết bàng hoàng vì hàng cây cổ thụ trên đường Tôn Đức Thắng đã bị chặt trụi và những cây cổ thụ trong khuôn viên nhà thi đấu Phan Đình Phùng đã biến mất. Nay thì tới căn biệt thự số 59-61 Lý Tự Trọng.
Về nhà xưa ở Sài Gòn mà nói, thì căn nhà nguyên là nơi cư ngụ của Giám mục Bá Đa Lộc, hiện được bảo quản trong khuôn viên toàn Tổng giám mục giáo phận Sài Gòn số 180 Nguyễn Đình Chiểu là xưa nhứt. Nhà được xây năm 1790.
Và ngôi nhà xưa thứ hai ở Sài Gòn chính là căn biệt thự số 59-61 Lý Tự Trọng. Cũng là toà soạn của tờ báo quốc ngữ đầu tiên, tờ Gia Định Báo.
Ngay sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, thực dân Pháp đã lên kế hoạch chiếm đóng lâu dài trên đất nước ta. Năm 1861, họ dựng một ngôi nhà gỗ dùng làm dinh Thống đốc Nam Kỳ trên phần đất nay là trường Trần Đại Nghĩa.
Năm 1864, họ thành lập Nha Nội chánh (báo chí và dân chúng ngày xưa thường gọi là dinh Lại bộ thượng thơ). Nhiệm vụ của Nha nầy là: 1-Tòa án bản xứ. 2-học chánh. 3-tài chánh sự vụ như bưu chánh, công sản, trước bạ, địa chính, điện tín, thương cảng. 4-Sở công chánh (cầu đường, xây dựng…). 5-thương nghiệp, nông nghiệp và công nghiệp. 6-cảnh sát, trại giam, nhà thương và 7-điều khiển các nhân viên phụ trách hành chánh các tỉnh, theo Trương Vĩnh Ký, “Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ” (bản dịch Nguyễn Đình Đầu trong Petrus Ký Nỗi oan trăm năm, Nhã Nam và Tri Thức xuất bản 2016, trang 65).

Dinh Thượng thơ Nội vụ góc Tự Do-Gia Long (trái).


Nói chung quyền hành rất lớn. Tòa nhà Nha nội vụ năm 1864 được Thống đốc Nam Kỳ chỉ định ở “góc đường Catinat và quảng trường Đồng hồ, mặt tiền hướng về đường phố“, theo Trịnh Tri Tấn, Nguyễn Minh Nhựt, Phạm Tuấn, “Sài Gòn từ khi thành lập đến giữa thế kỷ 19” (Nxb TPHCM 1999, trang 78) và cùng năm nầy được đấu thầu xây dựng. Hình như nhà xây xong thì Pháp đã chiếm xong ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ, đến nay đã tròn 150 năm! Khi được xây dựng thì mùi máu tanh của hàng ngàn người Việt chết ở Đài đồn Chí Hòa vẫn còn phảng phất trong không khí!
So với nhà thờ Đức Bà nằm cách đó chưa đầy trăm thước, Nha nội vụ xưa (nay là cơ quan Sở Thông tin và truyền thông) là đàn anh, là chú bác. Vậy mà khi nhà thờ bị hư hỏng nặng, giáo hội đã tu bổ như chúng ta đang thấy. Nghe nói, tổng chi phí là 140 tỷ đồng. Toàn bộ số tiền nầy do giáo dân trong giáo phận đóng góp và không xin của ai!
Còn Nha nội vụ thì sao? Sau 150 năm đứng chịu nắng mưa, chịu bao phong ba bảo táp thì hư hỏng là việc bình thường và chuyện sửa chữa cũng là bình thường. Việc bất thường là có đề nghị đập bỏ! Tôi không rõ ai là người hoặc cơ quan nào đề nghị, song khi đề nghị như vậy, họ có cho cấp trên biết nếu xây dựng một căn nhà tương tự như vậy tốn bao nhiêu không? Và liệu như chúng ta có dư tiền để xây một hay hai căn nhà giống như vậy thì những căn nhà ấy có đủ tố chất, đủ thâm niên, đủ các yếu tố như căn nhà đang có không? Hay là khi đề nghị họ chỉ nghĩ đến việc “có xây là có dựng”, “có làm là có ăn”? Tôi không dám đánh đồng cá mè một lứa, không dám quơ đũa cả nắm, song tôi xin lỗi không thể nghĩ khác được.
Còn UBND thì xây ở đâu chả được. Thậm chí, khi giữ nguyên ngôi nhà nầy, thì ủy ban vẫn có cách để sử dụng nó có hiệu quả mà không cần phải đập rồi xây mới.

Thiết kế trụ sở HĐND, UBND TP.HCM mới. (Ảnh: Sở Kiến trúc – Quy hoạch TP.HCM)


Chỉ giáo dân của một giáo phận mà dám quyên 140 tỷ đồng tu bổ một ngôi nhà thờ; còn hơn 10 triệu người ở thành phố nầy lại không đủ sức, đủ tiền để tu bổ một cổ tích của thành phố? Quá vô lý!
Sẽ có người lập luận rằng: đây là dấu tích của thực dân cần phải phá bỏ. Tôi xin thưa rằng: dù là ai xây, nhưng các công trình có trên đất thành phố nầy đều là tiền của và công sức của người Việt cả. Không có thằng thực dân nào bỏ xu teng nào ra hết! Tất cả đều là của người Việt! Giữ lại một cổ tích không phải là giữ dấu tích của kẻ thù mà là giữ lại xương máu và mồ hôi của tổ tiên ta đã đổ xuống để tạo nó nên hình nên dáng. Đồng thời nhắc nhớ cho cháu con một giai đoạn lịch sử của thành phố nầy đã từng trải qua.
Nhà thơ Gamzatov có câu thơ hay:
Nếu bạn bắn vào quá khứ bằng súng lục, thì tương lai sẽ trả lại bằng đại bác.
(If you fire at the past from a pistol, The future will shoot back from a cannon).
Còn tôi thì nói rằng: Nếu chúng ta không ghi công trong việc xây dựng thành phố nầy, thì đừng để cháu con chửi rủa chúng ta vì đã phá nó!
                                                                     Ngày 26/4/2018
                            Theo facebook Nhà báo, nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy


Thứ Bảy, 5 tháng 5, 2018


Đây là bài phát biều của kỹ sư E.C.P, chủ công ty BOY-FERMÉ  về tháp nước cũ ở Sài Gòn, hai năm sau ngày phá hủy. Bài Phát biểu này cho chúng ta hình dung về cấu trúc của tháp nước này mà ngày nay không còn thấy tài liệu chi tiết nào nói về nó cả như lời của kỹ sư Jean Boy thổ lộ.


HỘI THẢO VỀ THÁP NƯỚC CŨ Ở SÀI GÒN (1879-1921)
của Jean Boy
(Tập san của Hội nghiên cứu Đông Dương, 1923, trang 59-68)



Kính thư ngài chủ tịch
Cùng quý ông
Sau những bài giảng thú vị của ông Albert Magen về tương lai của nông nghiệp và đặc biệt là ngành trồng trọt bằng máy ở đất nước này; và sau buổi tối khó quên mà ông Tricon đã trình bày cho chúng ta về thơ ca và âm nhạc Cam Bốt, hôm nay tôi muốn lưu truyền ký ức về một trong những tượng đài đẹp nhất, mà cho đến gần đây. được xem là một loại trang sức của Hòn ngọc Viễn Đông của chúng ta, và đây cũng là một điếu văn mà tôi gởi tới quý ông.
Quý ông đã ngắm tất cả trên vùng đất cao này (Là vùng người Pháp gọi là Haut plateau là khu vực cao nhất của Sài Gòn bao gồm toàn bộ khu vực từ khu Bason kéo dài đến khu tượng đài thống chế Joffre qua trường Chasseloup Laubat, dinh Norodom, tòa Pháp đình, dinh sous lieutenant,…N.D.), sự thanh lịch và tỷ lệ hài hòa của ngôi tháp nước cũ.


Vài dòng ngắn ngủi về lễ khánh thành tháp nước ở Sài Gòn năm 1878 
trên tạp chí Le monde illustré



Nhưng quý ông có thể không nhận thức đầy đủ về kỹ năng của kiến trúc sư đã thiết kế đài tưởng niệm này và ai, từ một chiếc chiếc bồn đáng sợ gắn trên đỉnh tháp, đã có thể tạo ra kiệt tác kiến trúc này để cho quý ông còn lưu giữ một ký ức về nó.
Tôi đang ở một vị trí thuận lợi để nói với quý ông với trách nhiệm về sự mắc míu trong việc dựng lên của một số những hồ chứa ghê gớm xuất hiện ở khắp mọi nơi, trong thành phố, như những chiếc nấm khổng lồ và, mặc dù tôi cố gắng an ũi tự che giấu một phần sự xấu xa tự nhiên của họ, nhưng chúng luôn luôn trông giống như những con cóc lớn ngồi trên sàn nhà.
Như phải nói, với lý do của chúng ta, rằng thời gian đã trở nên khó khăn, ngân sách được xét duyệt hàng ngày. và nó không còn cho phép chúng ta che giấu sự mỏng manh của bê tông cốt thép, hoặc bộ xương của khung loại nằm bên trong những bộ áo đắt tiền của đá cắt, các nếp gấp của các đường gờ và các bộ phận giả.
Nhưng các vật liệu quý giá nhất và các khoản tín dụng dối dào sẽ không đủ nếu không có tài năng của kiến trúc sư đã thiết kế tượng đài này, M. Fabre.
Hơn nữa, tất cả các tác phẩm mà kiến trúc sư này ban tặng cho thuộc địa được ghi nhận bởi dấu ấn nghệ thuật của ông, và sự hài hòa về tỷ lệ của chúng, và tôi đề cập đến những công trình khác, như ở Pnom-Penh, tòa nhà quan thuế, cây cầu Dollar. và, trên tất cả, điều kỳ diệu khác của sự thanh lịch và phong cách tốt, Cầu Nagas.

Tháp nước nhìn từ vị trí sau này là trước ngả tư Duy Tân - Hồng Thập Tự 
(Phạm Ngọc Thạch - Nguyễn Thị Minh Khai).

Tôi đã rất thích, các quý ông, để mang lại cho quý ông một tài liệu đầy đủ về tháp nước này và các công trình bổ sung là một phần của hệ thống phân phối nước đầu tiên của thành phố Sài Gòn, nhưng than ôi! những công trình xây dựng này có từ năm 1879, thời gian của những vị đô đốc. Khi thay đổi chế độ điều hành. Đô đốc đã chuyển những tài liệu của mình cho chính quyền dân sự; từ đó, họ đã chuyển đến sở công trình công cộng và tòa thị chánh, và có vẻ như " Ba lần dọn nhà bằng một lần cháy nhà " .. Hơn nữa, con mọt gỗ, những kẻ thù dai dẳng của các công trình ở đất nước này, không thể tấn công với những vật liệu quá chịu lực của tháp nước, đã trả thù bằng cách nuốt chửng các tài liệu! Tóm lại, mặc dù được chào đón thân thiện tại sở công trình công cộng và tòa thị chánh, các nghiên cứu mà những quý ông này đưa ra trong kho lưu trữ, không thể tìm thấy tài liệu về sự thực hiện lắp đặt ban đầu của tháp nước này, luôn cả bản đồ của tháp nước. Ngoài ra, tôi cố thu hẹp để thu thập một số thông tin trong hồ sơ của các biến đổi sau này, và không cần có sự giúp đỡ của luật sư hoặc đại biểu nào cả , tôi thấy mình rất xấu hổ khi đưa cho quý ông tại hội thảo về một chủ đề mà tôi không biết gì nhiều về nó.


Lịch sử của câu hỏi. - Dự án lắp đặt nhà máy nước đầu tiên có từ năm 1876. Trước đây, nguồn cung cấp chỉ được thực hiện bằng các giếng đặc biệt.
Như quý ông có thể thấy từ các kế hoạch đã đăng, dự án đầu tiên này bao gồm một giếng thủy tĩnh sâu khoảng 20 mét, được cung cấp bởi nước ngầm, mức độ đã được đo trên toàn thành phố.
Nước được rút ra bằng hai máy bơm bước và được đưa vào bốn hồ chứa trên mặt đất được bố trí theo hình chữ thập xung quanh tháp nước trung tâm. Một máy bơm thứ ba nâng nước từ các hồ chứa này lên bể chứa của tháp nước.
Tòa nhà chứa máy móc được đặt ở vị trí khi xưa là đồn cảnh sát. và giếng thủy tĩnh cũng gần bên phải cổng của đồn cảnh sát này.
Thiết bị khá lạ lùng: bơm nâng nước vào tháp được điều khiển bằng cáp cách khoảng 60 mét giữa các ròng rọc và băng qua phía trên con đường công cộng.
Trong khi đó quý ông có thể  tìm thấy trong các kế hoạch này các đường nét phác thảo của dự án thực hiện.
Cách bố trí của tháp nước được dựng trên nền đất cao tạo thành một tầng hầm và chứa các bể chứa đã được lưu trữ theo cách bố trí của nhà máy và giếng thủy lực mà nó được gắn vào, được tiến hành. vào năm 1879, cái này gọi là các bể lọc, có nghĩa là một bể chứa ngầm lớn, với những bức tường thấm, được nhấn vào tầng nước ngầm, với mục đích tăng lưu lượng của giếng.
Hơn nữa, nhu cầu nước của thành phố đã tăng nhanh chóng, các bể lọc nhanh chóng không đáp ứng đầy đủ và, vào năm 1888, thành phố phải thực hiện một công trình khác do ông Berger thiết kế. khu cung cấp được chọn trên miếng đất tại góc đường Mac Mahon và Richaud, gồm bốn giếng mới nối với nhau bằng đường ngầm nối khu cung cấp cũ và vào khu cung cấp được gọi là "khu trường thi "; và quý ông vẫn có thể nhìn thấy ở các góc của khu đất này những chòi nhỏ hình chuồng chim bao phủ các miệng giếng.
Đồng thời, các máy móc của nhà máy cũ được thay thế bằng các máy móc mạnh hơn.

Vị trí của 2 trong 4 giếng mới trong hình chụp từ nhà thờ Đức Bà

Cuối cùng, vào năm 1896, thành phố đã ký kết với ông Hermenier vì việc cung cấp nước từ Tân Sơn Nhứt về cung cấp cho thành phố. và dịch vụ công cộng này đã được giao cho công ty nước và điện CEE xây dựng một nhà máy mới với hai bể lớn bằng tôn với dung tích 1.250m3 mỗi cái, gắn trên một tòa tháp hình elip duy nhất bằng gạch, cao 30 mét, sau đó, vào năm 1906, hai bể khác tương tự trên cột tháp kim loại.




Những gì còn lại ngày hôm nay của giếng thủy tĩnh

Hiện nay, thành phố đã phát triển, vấn đề cung cấp nước trở lại trên chương trình nghị sự, và hội đồng thành phố đã bổ nhiệm một ủy ban để nghiên cứu vấn đề này với các công ty cung cấp nước.
Nghiên cứu các lắp đặt đầu tiên. – Khu lắp đặt mới của Tân Sơn Nhứt và các công trình nước là vinh dự cao nhất cho giới kỹ sư đã thiết kế và chế tạo chúng, nhưng những khu cung cấp quan trọng này, những bể nước khổng lồ này không khiến chúng ta quên đi các công trình đầu tiên, ít nhất là về kiến trúc và nghệ thuật của người xây dựng được đáng lưu ý.
Giếng thủy tĩnh. - Các giếng thủy tĩnh không có gì đặc biệt, ngoại trừ kích thước của nó, 2m. 80 đường kính bên trong và 20m. 00 chiều sâu. Nó được lót đáy bởi các quy cách thông thường của các vòng xây đặt trên một bánh đai bằng gang.
Trục của nó trùng khớp với lối vào của đồn cảnh sát.
Các bể lọc. - Các bể lọc, ngược lại, xứng đáng được đề cập đặc biệt.
Chúng tạo thành một phòng ngầm rộng lớn có mái vòm rộng 120m. 00 dài trên 12m. 00 rộng và rộng 9m. 50 chiều cao, được chia ra ở giữa bởi khối xây vòng của giếng thủy tĩnh vượt qua toàn bộ phòng ngầm.
Các bức tường bao gồm các trụ cột chống đỡ mái hầm và tấm lọc đá khô và ngầm xuống đất. Ống thoát nước không tiếp giáp đi qua các rãnh tách nước này và hút nước xa hơn vào tầng chứa nước, nơi các bể lọc nằm chìm trong đó.
Đất cách khoảng 12m. 00 bên dưới nền, trục của phòng ngầm nghiêng khoảng 45 ° trên trục đường phố Garcerie và Testard, và nó chiếm gần như toàn bộ chiều dài giữa hai con đường này. Các trụ cột chống đỡ hầm được kết nối ở khoảng 4m. 00 chiều cao bởi thanh giằng hình vòm tạo thành mố chống lại lực đẩy của đất. (Những thanh giằng này không được hiển thị trên bản đồ quý ông có trước mắt). Phòng này được dẫn tới hai giếng nằm ở hai bên của giếng thủy tĩnh, có các nắp được gắn với hai ki-ốt nhỏ mà bạn nhìn thấy ở mỗi bên lối vào đồn cảnh sát. Chi tiết ban đầu: một cây đa đã phát triển trong mỗi ki - ốt, và rễ chạy qua giếng và các đường hầm để lấy nước và đất từ ​​đáy bể lọc, trong khi tàng lá màu xanh che phủ các ki - ốt này và biến thành vật tô điểm đẹp mắt.
Tất cả công việc này tạo thành một tác phẩm rất lạ lùng và một chuyến du lịch bằng ghe trong căn phòng ngầm này sẽ là một điểm thu hút, thú vị như hệ thốngcống rãnh và hầm mộ của Paris.
Bồn chứa dự trữ. - Các bể chứa nằm ở nền đất cao cũng rất lạ.
Dự án hoàn thành bao gồm chỉ có hai bể chứa, chiếm toàn bộ trung bình, với một buồng van trung tâm thay vì bể chứa chéo mà quý ông nhìn thấy trên bảng kế hoạch đang treo.
Các bức tường được xây bằng đá granit có độ dày (1m. 50 phía chân) và rất vững chắc mà ông Carrère đã phải dầy công hãnh diện.
Tường bọc hình thành quay xung quanh tháp nước được hình thành từ hàng loạt mái vòm hình xương cá mang vẻ cứng cáp đáng kể. bởi vì chúng được làm bằng gạch phẳng 0m. 05 dày, đặt trên trên các gờ sắt hình chữ T; trong khi lớp tường bọc này là cực kỳ mạnh mẽ chịu được sự quá tải của 80 cm đất bao phủ nó với không suy giảm để chịu được trọng lượng của tất cả các vật liệu phá dỡ từ tháp nước, và điều này chắc chắn không được dự đoán trong các thông số kỹ thuật.
Sự tác động trở lại của những vòm mái vòm được đặt trên những cột trụ trung gian. và bên trong những hồ chứa này có dáng của những hành lang kiểu Gothic này, nơi những vòm mái giao nhau tạo thành chằng chịt như là một thách thức đối với luật xây dựng.
Các bức tường của buồng trung tâm của các van tạo thành nền móng của tháp nước.
Tháp nước. - Như tôi đã nói với quý ông trước đó, tôi không thể tìm thấy bảng thiết kế của công trình này. Tài liệu duy nhất tôi phát hiện trong tập hồ sơ là bức tranh vẻ bằng màu nước này, rất đẹp, nhưng thật không may, chỉ cho thấy dự án ban đầu mà ông Fabre đã thay đổi.
Và tôi xin cô đọng để nói về ký ức của kiệt tác nhỏ bé này nếu các ông Crespin và Carrère thân thiện của chúng tôi, không có nghĩa vụ cho tôi mượn những tấm ảnh này và tấm bưu thiếp này để hồi sinh một khoảnh khắc, trước mắt quý ông, về tháp nước xưa này.
Thiết kế chung của công trình không phải là rất đặc thù: nó là một bể bằng tôn dung tích 100m3 nằm trên độ cao 20m. 00 bởi tám trụ xây dựng hình thành một tháp hình bát giác ,nằm trên phần nền tạo thành phòng máy bơm. Mái hình giống một loại nón Trung Quốc bằng gạch, trên khung gỗ được bao quanh bởi một tán cũng bằng gỗ và một cầu thang xoắn ốc bằng kim loại, nằm ở trung tâm của tháp, cho phép dẫn vào hầm.
Nhưng có một nơi để ngắm hoàn toàn, đó là phần của kiến trúc sư đã biết rút ra các vật liệu tạo thành tác phẩm, những góc chuổi dài bẳng đá tạc kết hợp với những chổ lấp đầy đá xây, sự cân đối chính xác của tầng nền, của phuy nước và của đỉnh nóc, dáng vẻ toát ra của toàn bộ được bằng sự phân bố hợp lý trên phuy nước và đỉnh nóc, sự sắp xếp rất hay của mái hình món Trung Quốc, với tán bằng gỗ được chạm khắc nghệ thuật của nó đã che  giấu sự xấu xí của thùng bằng tôn, sự lựa chọn sáng suốt các ngói rỗng mà các rảnh và các gờ xây hòa điệu với đường nét tổng quát của công trình lên đến ống khói thông gió với góp phần vào sự hài hòa của toàn bộ.
Việc trang trí vừa giản dị vừa thanh lịch: Mặt đá rửa đã làm mất đi vẻ lạnh lùng của những góc chuổi dài và cột trụ bằng đá tạc; khuôn đúc rất đơn giản nhưng rất phù hợp; một lớp đúc và một lan can trang trí đánh dấu phần nền của phuy, của gờ được trang trí nhiều hơn một chút với các khuôn đúc phong phú hơn được đánh dấu bởi một khuôn đầu chìa; tán được nối với mái bằng một khuôn gỗ. Các miếng đệm giữa các cột được ẩn bởi một cầu nhỏ rất nhẹ mà hình dáng đã phá vỡ sự đơn điệu của đường nét. Các chi tiết nhỏ nhất được xử lý rất thẩm mỹ, khung cửa của lối vào với các hình lục giác làm tan đi những ngày nắng chói được dùng làm vật trang trí cho các tấm pa nô tầng nền.
Việc thực hiện công việc này cũng đặc biệt cẩn thận. và tên của nhà thầu, ông Loiseleur, xứng đáng được gắn liền với ký ức của công trình này cùng với kiến ​​trúc sư, ông Fabre.
Những người nhận thầu ở đất nước này biết những gì khó khăn đang gặp phải khi nói đến xây dựng một tòa nhà, hoặc đơn giản là để thực hiện bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào đưa ra bình thường và đặc biệt là thói quen người bản địa.
Ở đây, đặc biệt, nhà thầu tạo tác rất khó khăn những viên đá khắc trên một mô hình khác nhau, hình dạng phức tạp, hình trái cây không đồng đều trên các mặt dựng khác nhau đòi hỏi độ chính xác về kích thước đã đặt ra mà các thợ xây người Trung Quốc không quen. Và nó thực sự là một vòng những nổ lực để đạt sự hoàn hảo như vậy nhờ vào một lực lượng thi công hoàn hảo.
Cuối cùng, phạm vi bao quanh nơi đặt công trình là đối tượng của tất cả sự chăm sóc của kiến ​​trúc sư.
Nền đất chung quanh được bố trí một khu vườn công cộng với thãm cỏ với bốn cầu thang đồ sộ; lan can của nó được trang trí bằng cột đèn nến ở mỗi góc; Không thể mơ ước nào hơn cho tháp nước này là một sự tôn sùng thích đáng.
Nó được đề cao, tăng giá trị và đồng thời giữ ở khoảng cách trân trọng nhưng tán lá cây và buộc chúng ở lại trong vai trò là phục vụ như trang trí mà không cản trở quan cảnh của đài nước có hình bóng thanh lịch đứng trên bầu trời giữa khung cảnh xanh mang ấn tượng hạnh phúc nhất.




Này, quý ông, đài nước đã vừa nằm xuống bởi những nhát cuốc của những người phá hủy và tôi chắc chắn rằng tất cả những người đàn ông thời thượng, có nghĩa là tất cả các thành viên của xã hội chúng ta, sẽ tham gia với tôi, than phiền rằng các nhu cầu của việc mở rộng thành phố, chúng ta đã tuyên án cho một công trình nghệ thuật tuyệt diệu chúng ta đã trở nên quen thuộc coi như là một phần không thể tách rời của diện mạo thành phố chúng ta.
Ngài chủ tịch và hội đồng có nghĩ rằng nên để mất đi một công trình đã lưu truyền trong ký ức và người ta đã phó thác cho tôi cái vinh dự đầy nguy hiểm này.
Hãy tha thứ cho tôi, thưa quý vị, nếu bài tán tụng này vẫn nằm dưới giá trị của kiệt tác là đối tượng đang nói, và quý ông sẽ xem xét mong muốn mở rộng ký ức về tháp nước duyên dáng của chúng ta, của kiến trúc sư, M. Fabre, người đã thiết kế nó và của nhà thầu, M. Loiseleur, người đã thực hiện nó một cách hoàn hảo.
Sài Gòn, ngày 6 tháng 6 năm 1921. J. Boy.


Thứ Ba, 1 tháng 5, 2018


SÀI GÒN CẢNH CŨ ĐƯỜNG XƯA

Mỹ Phước Nguyễn Thanh





Đại lộ Lê Lợi 


Ngày nay đi trên những đại lộ phồn hoa giữa trung tâm đô thị Sài Gòn như Nguyễn Huệ, Hàm Nghi, mấy ai tưởng tượng đến cảnh cũ hơn trăm năm trước, thuyền bè đang lướt nhẹ trên kinh rạch vào tận các phố chợ rải rác quanh hào lũy của Thành Qui hay Thành Phụng.
Vào thời quân Pháp đổ bộ đánh chiếm Thành Gia Định, trên vùng đất thấp bên ngoài tường thành có ít nhất ba dòng sông nhỏ đổ ra sông Bến Nghé: rạch Cầu Sấu, kinh Chợ Vải, kinh Cây Cám. Chỉ vài năm sau khi chiếm xong Sài Gòn, vào khoảng thời gian ký kết Hòa ước Nhâm Tuất (1862) với triều đình Huế, quân Pháp đã khởi sự xây dựng một đô thị kiểu Âu Tây. Cũng vào năm ấy, đô đốc Bonard ủy thác đại tá Công binh Coffyn thiết lập đề án và bản đồ xây dựng một thành phố có thể chứa được 500.000 dân. Kế hoạch lớn lao này khó thực hiện được vì mang tầm nhìn quá xa, trong lúc Sài Gòn còn nhiều đất hoang bỏ trống và nhiều đường sá mới vừa vạch xong nhưng chưa trải đá. Thật vậy, mục tiêu của kế hoạch đầy tham vọng này là khuếch trương một thành phố chi chít đường sá bao trùm cả Sài Gòn - Chợ Lớn và giới hạn về phía Bắc bởi kinh Bao Ngạn, tức con kinh vành đai nối liền hai ngọn rạch Bến Nghé và Thị Nghè. Tuy nhiên cũng có một số dự án mang tính thực dụng, ta có thể nêu ra vài thí dụ như: sự quy định về phân lô đất đai và diện tích nhà ở, chiều rộng đường phố và vỉa hè, việc trồng cây dọc bên đường, địa điểm đặt máy nước công cộng, đường thoát nước mưa và nước thải…
Buổi ban đầu, giới cầm quyền nhận thấy các kinh rạch cũ vẫn ích lợi cho sự giao thông của thuyền bè nên họ cho trùng tu lại như đào thêm sâu dưới đáy bùn, vun đắp hai bên bờ cho thuyền bè dễ neo đậu.   Khoảng năm 1863, một dòng kinh mới được đại tá Coffyn chỉ huy thực hiện, nối liền phần ngọn của rạch Cầu Sấu, kinh Chợ Vải, kinh Cây Cám. Kinh mới này gồm hai đoạn: 1 - Đoạn thứ nhất nằm giữa vùng tiếp giáp của vùng đất thấp và đất gò, chạy song song với đường Isabelle II (nay là Lê Thánh Tôn). Thiếu tá Bovet thuộc cục Công Binh vào thời ấy gọi đoạn này là "Kinh Gallimard", đặt theo tên của viên đại úy đã tham gia trận đánh chiếm thành Gia Định. Đây là đoạn kinh có liên quan đến đại lộ Lê Lợi. 2 - Đoạn thứ nhì chảy vào rạch Bến Nghé, đi song song với đường Impératrice (nay là đường Công Lý). Sau khi bị lấp, đoạn này trở thành một phần của đường Pasteur hiện nay.

Kinh Gallimard, không gian nguyên thủy của đại lộ Lê Lợi


Vì kinh Gallimard được đại tá Coffyn chỉ huy thực hiện nên nó còn được cụ Trương Vĩnh Ký gọi là "Kinh Coffine". Con kinh thẳng tắp này được đào bằng đôi tay của những người phu thợ vì vào thời ấy máy móc hãy còn thiếu thốn. Những khối đất đào lên dùng đắp nền cho các dinh thự tương lai. Lúc đầu đường đi hai bên bờ kinh đều cùng mang tên tạm là "Số 13", đến năm 1865 mới đổi là "Bonard". Đầu kinh phía Tây (ở khoảng ngã năm Lê Lợi - Công Lý - Nguyễn Trung Trực) quay ngoặt nối vào đoạn kinh thứ nhì đã nói trên đây.  Đầu kinh phía Đông nối với kinh Cây Cám hợp thành một ngã ba, một nhánh đi xuyên qua khu xưởng đóng tàu Ba Son, nhánh kia chảy ra Sông Sài Gòn (gần ngã ba bến Bạch Đằng và đường Đồn Đất).




Nếu ta sống vào thời ấy, ngồi thuyền đi dạo trên kinh Gallimard, nhìn lên hai bờ có lẽ ta chỉ thấy phong cảnh hoang vu của một thị trấn mới khai sinh, vì nhà cửa còn thưa thớt, phần lớn đất đai còn dành cho các cơ quan quân sự hay hành chánh: Trại lính Pháo binh bên cạnh sở Quân lương (khu vực bộ Tư lệnh Hải quân VNCH), trại lính và kho hàng của Sở Công binh (hai bên đường Hai Bà Trưng, từ Phòng thí nghiệm Quan thuế qua khách sạn Brink), dinh thất dành cho các quan viên người Việt dừng chân tại Sài Gòn (chỗ khách sạn Continental), bót cảnh sát (chỗ quán Givral)… Các nhà buôn đến đây lập nghiệp còn thưa thớt, có thể đối với họ vùng này ở khá xa Thương cảng. Phần lớn họ tập trung bên bờ sông Sài Gòn hay rạch Bến Nghé, hoặc dọc theo đường Catinat và hai bên bờ kinh Chợ Vải. Theo niên giám 1865, trong số khoảng 60 thương gia người Âu tại Sài Gòn, ta chỉ thấy một cơ sở duy nhất là trại cưa gỗ của ông Larien nằm bên kinh Gallimard. Có ít nhất năm chiếc cầu gỗ bắt ngang qua kinh Gallimard, chưa kể thêm hai cầu nối liền đoạn bờ bị đứt đoạn tại giao điểm với kinh Chợ Vải (Ngã tư Lê Lợi - Nguyễn Huệ ngày nay).
Dân cư ngày càng đông, đường phố càng chật hẹp, sông ngòi trong nội thành không kịp bảo trì trở nên ô nhiễm. Chỉ vài năm sau khi đào kinh Gallimard, 1867, Bovet với tư cách ủy viên hội đồng thành phố đã tường trình rằng các kinh rạch giữa thành phố trở thành nơi ứ đọng nước bẩn và rác rưởi, ổ chứa mầm bệnh. Ông ta yêu cầu nên tu sửa kinh lại hoặc lấp hẳn đi. Không rõ kinh Gallimard bị lấp năm nào, nhưng đã biến mất trên bản đồ năm 1878, như thế kinh này không tồn tại quá 15 năm.



Đại lộ Bonard





Sau khi kinh bị lấp, một dải đất bằng phẳng dài khoảng 800 mét bắt đầu từ đường Hôpital (Đồn Đất) đến đường Cap Saint Jacques (Nguyễn Trung Trực) biến thành đại lộ Bonard. Con đường mới lập bao gồm cả hai bờ kinh cũ nên bề ngang khá rộng, gần 60 mét. Suốt chiều dài đại lộ được trồng lớp thảm cỏ xanh ở chính giữa, chỉ cách khoảng nhau tại các ngã tư, hai bên dành làm đường cho xe cộ lưu thông. Cây trồng dọc hai bìa thảm cỏ và dọc theo lề đường xếp thành bốn hàng dài tít tắp, cho ta  cảm tưởng nhìn vào một công viên tươi mát. Cảnh sắc ấy được giảm bớt đi phần nào vẻ đơn điệu kể từ lúc đài kỷ niệm Doudard de Lagrée hình trụ tháp được đặt  tại nơi gần ngã tư đường Catinat - Bonard (Đài kỷ niệm này sau được dời về công trường Một Hình). Đến năm 1887, vào ngày Quốc khánh Pháp, tại trung điểm của đại lộ Bonard, trên bãi cỏ nằm giữa đại lộ Charner và đường Catinat, đã diễn ra buỗi lễ khánh thành dựng tượng của Francis Garnier, viên sĩ quan tử trận gần Cầu Giấy vào năm 1873, bởi thế về sau đoạn đường này được đổi thành "công trường Francis Garnier" (nay là công trường Lam Sơn). Đài kỷ niệm này bị phá hủy vào năm 1945, và hơn 20 năm sau, vào năm 1967, bức tượng hai chiến sĩ Thủy quân Lục chiến cũng được dựng lên tại đây. 
 Đại lộ Bonard ngày xưa tuy rộng lớn nhưng ít người đi lại mua bán vì gần phân nửa số kiến trúc phía mặt tiền thuộc về các cơ quan công quyền, còn lại chỉ có rải rác vài ba tiệm buôn, quán nước, tiệm may, tiệm giặt ủi… Hai tòa nhà đáng lưu ý nằm tại góc đường Catinat là Tòa Thị chính (chỗ Khách sạn Continental hiện nay) và phía đối diện là một rạp hát do công trình tạo tác của kiến trúc sư Bergé (chỗ khách sạn Caravelle). 
 Diện mạo đường Bonard gần như không thay đổi cho đến cuối thế kỷ XIX, khi khu vực bên phía Đông của đường Nationale (Hai Bà Trưng) được sửa sang lại, khiến đại lộ Bonard bị thu ngắn gần hết phân nửa. Khoảng 1897, một nhà máy điện được xây lên trên trục giữa của đoạn đường Bonard này (Về sau là tòa nhà của Công ty Điện lực Việt Nam, nhìn ra đường Hai Bà Trưng), hai đường phụ hai bên trở thành đường Colonel Fryatt (Cao Bá Quát) và đường Rudyard Kipling (Nguyễn Siêu).   Vào năm 1900, một nhà hát mới được xây lên giữa đại lộ Bonard, mặt tiền hướng về đường Catinat, đối diện với tượng đài Francis Garnier. Mặt đường tại đây được mở rộng làm công trường, hai đường bên hông uốn cong vây hai bên Nhà hát. 
 Đầu bên phía Tây của đại lộ Bonard giáp với đầu đường Cap Saint Jacques (Sau đổi tên là Filippini, nay là đường Nguyễn Trung Trực), suốt nhiều thập niên bị chắn ngang bởi tường rào ngăn cách với khu phố nằm phía sau kho vật liệu của Thành phố (vị trí của kho này ở khoảng trước chợ Bến Thành, từ đầu đường Phan Bội Châu đến cửa Nam nhìn ra tượng Quách Thị Trang). Vào những năm 1910, khi khu vực này được chỉnh trang để xây chợ Bến Thành thì đại lộ Bonard được khai thông tới công trường Cuniac vừa hoàn tất (Nay là công trường Diên Hồng còn gọi là công trường Quách Thị Trang). Ngay sau đó đại lộ Bonard trở thành một đường huyết mạch.   Trong suốt mấy thập niên, hằng ngày nhiều chuyến xe điện theo đường sắt từ khu chợ Bến Thành, đi cặp lề đường phía bên Bộ Công chánh, băng qua đường Catinat tới sau lưng Nhà hát Tây quẹo trái qua đường Paul Blanchy chạy về hướng Đa Kao. Đây là phương tiện giao thông nhanh chóng, nối liền trung tâm Sài Gòn với các chợ ngoại ô như Bà Chiểu, Hóc Môn, Gò Vấp hoặc xa hơn như Thủ Dầu Một.
  Vào năm 1955, đại lộ Bonard đổi tên là Lê Lợi, một trong những đường phố sầm uất và phồn thịnh nhất của thủ đô Sài Gòn.

Nhàn du trên đại lộ Lê Lợi xưa


Khởi hành từ công trường Lam Sơn, chúng ta cùng đi thăm lại đại lộ Lê Lợi vào những năm 1970. Sau ngày độc lập dưới chính thể Cộng hòa, Nhà hát Tây cũ đã được trùng tu làm Trụ sở Quốc hội, sau đổi thành Nhà Văn hóa rồi đến Hạ Nghị viện. Đứng trước cửa trên bậc thềm cao ta nhìn thấy tất cả sinh hoạt nhộn nhịp và dòng xe cộ dập dìu quanh công viên Lam Sơn, với hàng cây dầu cao chót vót, bồn cỏ, ghế đá bên bệ tượng hai chiến sĩ TQLC đang xung phong. Bãi giữ xe đạp, xe gắn máy xếp chật kín bên lề đường đủ cho ta thấy số lượng người tấp nập đến đây mua sắm, giải trí hoặc lo chuyện sinh nhai. Rời thềm trụ sở Hạ Nghị viện, chúng ta chọn lề đường phía bên trái (bên dãy nhà số lẻ) để bắt đầu chuyến dạo phố Lê Lợi.
 Nơi góc đường Tự Do có tòa nhà hai tầng trước kia thuộc Sở Thông tin Đô thành, nơi tổ chức nhiều cuộc triển lãm, khách nhàn du thường ghé qua xem các cuộc triển lãm hội họa, hình ảnh thời sự… Sau đó cũng tại đây Bộ Thông tin đã thành lập Trung tâm Liên lạc Báo chí và bên cạnh là Câu lạc bộ Văn hóa, dành cho các ký giả, văn nghệ sĩ đến gặp gỡ đàm luận. Dưới thời Pháp thuộc, vào đầu thế kỷ XX nơi này là hãng buôn Compagnie Générale d’Exportation chuyên về hàng may mặc, hành trang du lịch, chuyên cả may cắt y phục và bán các loại rượu, tủ sắt… Sau đổi chủ trở thành tiệm buôn Aux Nouveautés Catinat, một loại "bách hóa tổng hợp", bán thực phẩm cao cấp, rượu ngon, rau cải, trái cây tươi, có cả nước hoa, y phục, dụng cụ thể thao… 
Bên cạnh Phòng Báo chí là một building cao năm tầng và nối dài đến góc đại lộ Nguyễn Huệ. Tòa nhà này được xây vào đầu những năm 1950, tại tầng trệt có hãng buôn Nam Hoa, chuyên bán đủ loại hàng hóa hợp thời trang. Kế bên cạnh đó và giáp với đại lộ Nguyễn Huệ là các văn phòng chi nhánh của Sài gòn Ngân hàng, chiếm vị trí cũ của hãng SEIC (Société d’Exploitation Industrielle et Commerciale) còn có tên là Saigon Garage, hiện diện tại đây từ những năm 1950. Vào đầu thế kỷ XX, tại góc phố này có quán Café Moderne do bà Bonnyfay làm chủ, sau đó là tiệm buôn y phục thời trang của bà Grammont. Đến 1920 là năm khai trương công ty bán và sửa xe hơi Auto-Hall do ông Bainier quản lý, nằm trong khu nhà trệt rộng lớn chiếm hết hai mặt góc đường. Tiếp theo đó, vào năm 1927, hãng xe hơi này dọn qua góc chéo đối diện bên kia ngã tư (chỗ building Rex sau này). Chính giữa ngã tư có bồn tròn phun nước, vị trí cũ của một bệ bát giác dành cho lính Pháp trình diễn âm nhạc, cho nên dân chúng còn gọi khu vực này là "Bồn kèn".
Băng qua đại lộ Nguyễn Huệ, ta đến thương xá Tax, tòa nhà sơn trắng chi chít những biển và chữ quảng cáo đủ màu, ven tầng trệt có mái rộng nhô ra che mát vĩa hè. Trung tâm thương mại này lúc nào cũng nườm nượp người ra vào mua sắm hoặc chỉ đến ngắm nghía hàng hóa trưng bày trong các gian hàng lộng lẫy, đèn chiếu sáng choang.


Ta có thể vào thương xá bằng cửa bên phía Nguyễn Huệ hoặc bên phía Lê Lợi. Ngay tại góc đường là quán giải khát Pôle Nord.   Hồi đầu thế kỷ XX, nơi đây có Sở Canh nông và Thương mại, sau nhường chỗ cho quán ăn kiêm quán rượu Pavillon Bleu. Tiếp theo đó, ông Perrin đã mở một garage sửa và bán xe hơi trong khoảng mười năm. Năm 1921, hãng này khai thác việc chuyên chở bằng xe bus lần đầu tiên, lộ trình là chợ Bến Thành - Ba Son - Tân Định. 
Tiền thân của thương xá Tax là "Hãng Sạc-ne" tức là tòa nhà Grands Magasins
Charner (GMC) chi nhánh của tập đoàn  Société Coloniale des Grands Magasins. Ba năm sau ngày đặt viên đá đầu tiên, hãng này được chánh tham biện Eutrope thay mặt toàn quyền Đông Dương đến khánh thành vào buổi chiều ngày 26 tháng 11 năm 1924. Đây là một kiến trúc cao ba tầng mang phong cách nửa Âu nửa Á. Trên đỉnh nóc vòm tròn nơi góc tòa nhà có tháp đồng hồ, trang trí bằng mái cong kiểu chùa chiền. Vào thời ấy các nhà buôn nhỏ quanh khu vực Bồn Kèn rất lo lắng, họ e sợ rằng không cạnh tranh nổi một trung tâm thương mại có tầm vóc như GMC và họ buộc lòng phải đóng cửa vì ế khách. Để trấn an các thương gia này, trong bài diễn văn khai trương, vị đại diện của GMC là Ribupe đã lập luận thuyết phục họ rằng việc thiết lập trung tâm thương mại tân thời này sẽ thu hút đám đông qua lại trong khu phố, tức nhiên việc buôn bán sẽ thuận tiện hơn cho tất cả mọi người, hơn nữa giá cả địa ốc tại đây sẽ tăng cao. Vào khoảng năm 1949, Hãng Sạc-ne được tân trang, tháp đồng hồ bị phá bỏ để xây thêm một tầng lầu, bên trên góc tòa nhà mang ba chữ to "GMC". Đến khoảng năm 1960, cơ sở thương mại này được hiện đại hóa, mang tên mới là Thương xá Tax. 




Từ thương xá Tax tiếp tục rảo bước về hướng chợ Bến Thành, ta đi ngang qua cổng lớn của Công ty Xe hơi Kim Long, mang cùng địa chỉ với hãng SCAMA
(Société Commerciale d'Automobiles et de Matériel Agricole) được thành lập tại đây từ năm 1928, chuyên bán xe hơi và máy móc nông nghiệp.  Tiếp đến là một dãy tiệm, trong đó có Phương Lan (giải khát), Việt Anh (chụp ảnh, hớt tóc), Étienne (uốn tóc), Thanh Tòng (vô tuyến điện), Lys (bar, nhà hàng)… Ngay tại góc đường Pasteur có hãng xuất nhập cảng Viễn Đông, bán nhiều mặt hàng ngoại quốc như nước hoa, đồ dùng điện khí… Nhưng nhắc tới Viễn Đông ta thường nhớ ngay các thức ẩm thực bình dân nhưng khoái khẩu bán tại góc đường này. Ngoại trừ hàng nước mía nằm hẳn trong tiệm không bảng hiệu phía bên đường Pasteur, các xe bò bía, xe gỏi đu đủ bò khô, quầy thịt phá lấu đều bán trên lề đường, thực khách dù đứng ăn cũng không thấy gì bất tiện xem ra còn ngon miệng nữa là khác.



  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...