Thứ Hai, 18 tháng 12, 2017

CITÉ –  CƯ XÁ - CHUNG CƯ


Từ Cité tồn tại từ thập niên 1930 và rơi rớt mãi cho tới giữa thập niên 1975. Nào là Cité Laréngère, Cité Richaud, Cité Heyraud, Cité Aristide Briand, Cité Hérault,…Nhưng Cité là gì? Có lẽ giờ chỉ cỏn những người từ U80 trở lên mới hiểu thôi.
Cité là từ của Pháp dùng để chỉ một khu nhà ở dành cho thành phần nào đó trong xã hội và từ tương ứng trong tiếng Việt vào những thập niên 1960 là cư xá.
Trong thời thuộc địa, mảnh đất Sài Gòn luôn thu hút những người từ khắp xứ tụ tập về đây sinh sống, từ đó làm gia tăng dân số cơ học. Chính vì lý do này, chính quyền Pháp đã có chinh sách xây dựng các cụm dân cư để trước mắt giải quyết cho các thành phần này và tập hợp những người làm việc cho Pháp vào những khu dể quản lý bao gồm cả người bản xứ và Pháp.
Nhịp độ xây dựng được tiến hành thì chiến tranh thế giới lần thứ 2 nổ ra, đã làm giảm đi rất nhiều và đã ngưng lại vì xứ thuộc địa phải dồn sức chi viện cho chính quốc, rồi đến quân Nhật chiếm đóng Đông Dương.
Chúng ta xem thử số liệu của C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 236 - dossier 294:
Tháng 7 năm 1953, hồ sơ về nhà ở do chính quyền thành phố Sài Gòn xây dựng được tóm tắt như sau:
Cité Lacaze (24 căn nhà, 124 căn hộ) được mở rộng bởi 16 căn nhà và 30 căn hộ, 450 ngôi nhà được dự báo;
Cité Nguyễn Tri Phương (1012 căn hộ) có 120 căn hộ và kế hoạch xây dựng thêm 108 căn hộ;
Cité Eyriaud de Vergues cần có 120 căn nhà trước cuối năm;
Cité Pavie Ducas khánh thành vào mùa hè 293 nhà ở;
Cité mới dành cho dân chúng ở Phú Thọ đã khởi công xây dựng 232 căn nhà.
Phải kể thêm bảng cân đối kế hoạch xây dựng và tái thiết dành cho các nhân viên phục vụ chính quyền thuộc địa bao gồm các gian nhà nhỏ và tòa nhà 4 tầng như: cité Larényère, cité des transmissions, cité Audouit, cité Galliéni, cùng các dãy nhà liên kế tại các mảnh đất có sẳn. P. Machefaux - ingénieur en chef des T.P. de Cochinchine - travaux N° 184 - février 1950 [C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 223 - dossier 258].


Building dành cho nhân viên hảng xăng dầu Shell về sau phủ thủ tước trước năm 1975



Cité Galliéni trước năm 1975 là bệnh viện hải quân Mỹ đường Trần Hưng Đạo


Cité Laréngère đường Bà Huyện Thanh Quan nhìn từ trên cao 



Cité des transmissions về sau là cư xá điện lực đường Hồng Thập Tự cũ


Building Richaud đường Phan Đình Phùng cũ


Một building thời Pháp về sau là trục sở MACV số 137 Pasteur



Một building dành cho người Pháp trước 1975 tại đường Trương Minh Giảng

Trong một tài liệu năm 1939 đề cập các hình thức kiểm soát nhà ổ chuột được dự tính tại Sài Gòn [C.A.O.M. - fond ministériel - agence française d’outre-mer - carton 236 - dossier 294]. Cité Aristide Briand (về sau là cư xá Đô Thành) xây dựng 125 căn nhà với 2 phòng, khánh thành năm 1939 để di chuyển cư dân cư ngụ tạm bợ trong các túp lều. Trong đó có 64 căn dành cho thợ thuyền và viên chức thành phố.


Cư xá Đô Thành xưa gọi là Cité Aristide Briand

Hơn nữa, thái độ của chính quyền Pháp là rất rõ ràng trong kết luận về cuộc chiến chống khu ổ chuột: "Trong một vùng lãnh thổ nơi dân số 260.000 dân (Số liệu năm 1936 và bùng phát dân số năm 1937) thì sự hiện diện của các khu ổ chuột là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên vẫn còn những nhà cây, túp lều của tầng lớp nghèo nhất, với mức sống thấp. Đó là lực lượng lao động cung cấp cho các nhà máy và dịch vụ. Do đó sự cần thiết phải duy trì và dung túng các khu vực đặc biệt này.
Trong thời chính phủ quốc gia Việt Nam, Quốc gia kiến ốc cục được thành lập nhằm mục đích giải quyết vấn đề nhà tạm bợ trong các thành phố, thị trấn miền Nam Việt Nam. Năm 1958, Thời Ngô Đình Diệm, cơ quan này đổi tên lại là Ban doanh lý kiến thiết. Vào năm 1965 thì cơ quan này này một lần nữa nhập chung vô Tổng nha kiến thiết và thiết kế đô thị ở đường Phan Đình Phùng.


Tổng nha kiến thiết và thiết kế đô thị ở đường Phan Đình Phùng.

Chính sách giải quyết tình trạng thiếu nhà ở là, trước tiên, xây dựng nhà ở và các thành phố phổ biến cho viên chức trà góp dài hạn (8 đến 12 năm); và thứ hai, để hỗ trợ các nhà phát triển tư nhân hoặc các tổ chức vay dài hạn (5 đến 10 năm). Nguồn tài chính của ban Khai thác và Xây dựng đến từ khoản lãi suất phát sinh trong Xổ số kiến thiết, tiền thuê tài sản thuộc sở hữu của ban này và khoản lời cho vay. Ngoài phần này, cần phải đề cập đến một cơ quan khác ở cấp thành phố, đó là Văn phòng quy định về Giá Nhà ở (Gia cư Liêm giá cuộc).
Từ năm 1952 đến năm 1963, 13.250 ngôi nhà được xây dựng bởi Quốc gia kiến ốc cục và ban Khai thác và Xây dựng (tiến độ là 1.100 ngôi nhà năm). 103.846.000 đồng được cho tư nhân vay để phát triển và 207.234.000 đồng cho các khoản nợ nhà ở. Tuy nhiên, những sáng kiến ​​này không đáp ứng được nhu cầu nhà ở của người dân. Trong 1955-1958 năm, khi hoạt động xây dựng do Quốc gia kiến ốc cục là nhiều nhất, hầu hết các cư xá được xây dựng để phù hợp với những người nhập cư mới tại các khu vực đô thị hoá mới của Sài Gòn, thí dụ Bình Thới (quận 11) Xóm Cũi (quận 8), Chánh Hưng, Vĩnh Hội - Lý Nhân (quận 4), Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sỹ), Phú Thọ Hòa, Tân Quy Đông. Các công trình xây dựng mới tại trung tâm vẫn còn hạn chế. Có thể đề cập tới một số cư xá phổ biến như vậy trong Thị Nghè được xây dựng vào năm 1956, tại Trương Minh Ký - bây giờ đường Nguyễn Thị Thiên Chúa và Phật Ân - một con hẻm trên đại lộ Trần Hưng Đạo. Ngoài ra, và ban Khai thác và Xây dựng còn xây dựng những cư xá hạng sang như cư xá Nguyễn Tri Phương đã có từ năm 1958 hay những cư xá “nhà ống” như cư xá Dân Dinh, cư xá Kiến Thiết.

Cư xá dành cho nhân viên hàng không đường Công Lý cũ

Năm 1968, cuộc tổng công kích tết Mậu Thân đã tiêu hủy nhiều ngôi nhà trong Sài Gòn – Chợ Lớn. Vì thế chính quyền buộc phải quy hoạch và xây dựng lại những khu dân cư. Tháng 3 năm 1968, các công trình chung cư được tiến hành bao gồm: chung cư Ấn Quang (900 hộ), chung cư Bàn Cờ còn gọi là chung cư Nguyễn Thiện Thuật (1396 hộ). Hai chung cư tiếp tục xây dựng là chung cư Minh Mạng (3000 hộ), chung cư Nguyễn Kim – Nguyễn văn Thoại (200 hộ bằng vật liệu tiền chế). Ngoài ra còn các chung cư khác như chung cư Cô Bắc, chung cư Cô Giang,v.v..


Chung cư Bàn Cờ còn gọi là chung cư Nguyễn Thiện Thuật


Chung cư Minh Mạng

Như vậy từ Cité tồn tại tên cửa miệng người dân Sài Gòn cho tới thập niên đầu 1960 đã biến thành từ Cư xá. Sài Gòn tồn tại rất nhiều cư xá theo hình thức dãy nhà trệt  liền kề hoặc hai ba tầng thành khối. Đời sống cư dân ở đây đa số là những công chức, nhà giáo hay quân nhân có cuộc sống khép kín cho nên ở đây không khí luôn luôn yên ắng không xô bồ như những xóm lao động. Vì thế nhạc sĩ Phạm Duy mới viết: “Trả lại em yêu nỗi buồn cư xá” trong bài Trả lại em yêu là như vậy.
Trái lại không khí của các chung cư thì lại khác vì nó là nơi cư ngụ của đủ thành phần xã hội và cái từ chung cư chỉ xuất hiện sau giữa thập niên 1960 trong xu thế quy hoạch chung của các đô thị trên thế giới.
Còn rất nhiều cư xá và chung cư nữa: Cư xá Lữ Gia, Cư xá sĩ Quan Chí Hòa, Cư xá ngân hàng, Cư xá Yên Đổ, Cư xá Chu Mạnh Trinh, Cư xá nữ sinh Thanh Quan, Làng đại học, làng báo chí, chung cư Thanh Đa,.......

Tham khảo:
-     OUTILS D’URBANISME ET INVESTISSEMENTS IMMOBILIERS PRIVES
FABRICATION DE L’ESPACE CENTRAL DE HO CHI MINH-VILLE
NGUYỄN CẨM DƯƠNG
-   3.1 les premiers programmes de logements sociaux

http://theses.univ-lyon2.fr/

Thứ Năm, 14 tháng 12, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                       1311. Giao lộ Đồng Khánh - Lương Nhữ Học xưa và nay.


                       1312. Giao lộ Đồng Khánh - Lương Nhữ Học xưa và nay.


                       1313. Đại lộ Norodom năm 1951 và hiện nay.


                       1314. Quang cảnh chợ hoa đại lộ Charner (Nguyễn Huệ) năm 1940 và hiện nay.


                       1315. Góc Bùi Viện - Đề Thám xưa và nay.


                       1316. Đường Lê Quang Định nhìn từ bùng binh Hồng Bàng xưa và nay.


                       1317. Đường Huyền Trân Công Chúa xưa và nay.


                       1318. Tòa Đô chánh hai thời kỳ.


                       1319. Đại lộ Galliéni (Trần Hưng Đạo) năm 1931 và hiện nay.


                       1320. Góc đường des Marins-rue des Artisans - Galliéni (Trần Hưng đạo - Phạm Đôn) đầu thế kỷ 20 và giờ đây.




Nguồn Trung Ngo, Candy Nguyen, Tim Doling

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

ĐƯỜNG NOUVELLE
ĐƯỜNG PIERRE FLANDIN
ĐƯỜNG BÀ HUYỆN THANH QUAN


Con đường này khi xưa, tôi qua lại cũng nhiều lần nhưng sự chú ý về cảnh quan và nhà cửa hai bên đường tôi lại ít quan sát cho nên giờ ngồi viết lại con đường này, tôi chỉ còn nhớ những điểm quan trọng và quen thuộc.
Đường này lúc đầu rất ngắn, trục Tây Bắc – Đông Nam, đi từ đường Chasseloup-Laubat tới đường Colombier và gọi là đường Nouvelle nhưng ngày 26 tháng 4 năm 1920 nó lại đổi tên Pierre Flandin. Pierre FLANDIN sinh ở Bollène (Vaucluse) ngày 13 tháng 4 năm 1896. Ông là lính phi công tử nạn tại vùng Noyon (Oise) ngày 18 tháng 10 năm 1917 trong chiến tranh thế giới.
Sau này đường được nới dài tới đường Legrand-de-la-Liraye rồi tới đường Champagne và cuối cùng là đến kênh Thị Nghè. Từ chiều dài chỉ có 300 mét giờ đây nó là 1.350 mét. Sở dỉ nó được nới dài nhiều lần là vì độ tăng diện tích của việc mở rộng thành phố từng thời kỳ của Pháp.


Bản đồ 1942

 Đến thời chính phủ quốc gia Việt Nam thì con đường này đổi tên là Bà Huyện Thanh Quan, một nhà thơ nữ, tác giả bài “Qua đèo Ngang”. Hẳn những người đặt tên đường có chủ ý nên song song với đường Bà Huyện Thanh Quan là đường Đoàn Thị Điểm cũng là nhà thơ nữ. Nhưng giờ đây bà Đoàn Thị Điểm đã “dọn nhà” sang quận Phú Nhuận không còn ở quận 3 nữa.


Bản đồ 1958

Thời kỳ trước 1975, con đường này chỉ chạy tới ngả ba với đường Kỳ Đồng giáp với nhà thờ Chú Cứu Thế và kéo dài là một con hẽm tới kênh Nhiêu Lộc. Con đường này cũng là một trong những con đường nhiều cây xanh và yên tỉnh một thời. Tại nơi đây tập trung những villa của người Pháp và nằm trong khu vực có người Pháp cư ngụ nhiều nhất nằm ở quận 3. Tuy nhiên cũng có những điểm hơi xao động như đoạn ngả ba với Kỳ Đồng hoặc phía hông trường nữ trung học Gia Long và chùa Xá Lợi.

Bây giờ bắt đầu đi ngược từ số lớn đến số tức là từ ngả ba Kỳ Đồng. Tại đây chúng ta thấy có nhà thờ dòng Chúa Cứu thế cùng với trường trung học Cứu Thế. Nhìn qua ngả ba về góc trái có nhà của ông luật sư Hoàng Cơ Thụy Là tác giả sách Việt sử Khảo luận. Nguyên Đại sứ VNCH tại Lào 1969-1975, tới một chút có con hẽm đi vô trường Anh văn của giáo sư Lê Bá Kông  là tác giả của cuốn tự điển Việt – Anh, Anh – Việt.


Nhà thờ dòng Chúa Cứu thế ở ngả ba Kỳ Đồng - Bà Huyện Thanh Quan

Đi tới về phía tay mặt vào con hẽm cụt, là villa của ông Phạm Sanh đồng sáng lập Nam Việt ngân hàng nổi tiếng một thời với Tín Nghĩa ngân hàng của Nguyễn tấn Đời. Đoạn này cho tới ngả tư với Yên Đổ (Lý Chính Thắng) hai bên là những căn villa  của tư nhân.

Qua ngả tư này, bên tay phải có một cơ quan của thời VNCH nhưng tôi đã quên mất nó là gì; giờ là hội trường của thành ủy thành phố.

Tới ngả tư với đường Hiền Vương (Võ Thị Sáu), nhìn về phía phải bên kia là  phía sau và phía hông của trường Regina Pacis một thời, chạy dài tới ngả tư với đường Tú Xương.


Trường Regina Pacis 


Đường Tú Xương với ngả tư với Bà Huyện Thanh Quan đằng xa 

Cùng tại ngả tư này, nhìn về phía phải bên kia là  phía sau là bệnh viện Saint Paul giờ là bệnh viện mắt, cũng chiếm khoảng chiều dài con đường cho tới ngả tư Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ).

Qua ngả tư này, bên trái là hông của trường nữ trung học Gia Long ngày xưa giờ là Nguyễn Thị Minh Khai. Còn bên phải đi tới ngả ba  với Lê Văn Thạch (Sư Thiện Chiếu) là chùa Xá Lợi. Chùa này là điểm tập hợp những phật tử trong vụ Phật giáo thời Ngô Đình Diệm. Ngày xưa trước mặt chùa là điểm tập hợp các xe bán nước giải khát và đậu đỏ bánh lọt và là điểm quen thuộc của học sinh Gia Long.








Hông của trường nữ trung học Gia Long đối diện qua chùa Xá Lợi




Cạnh chùa là một building xưa gọi là cư xá nữ sinh Thanh Quan. Nơi này vào những tập niên 1980, nhạc sĩ Quốc Dũng và nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang có mở lớp dạy nhạc tại đây. Phía sau của chùa và cư xá là cơ quan USOM của Mỹ hồi xưa. Nơi này đã bị dân chúng hôi của trong ngày 29/4/1975, hàng vạn cuốn sách bộ mới English for today đã bị lấy sạch.

Chùa Xá Lợi nhìn từ cơ quan USOM của Mỹ


Bước tới là ngả tư với Ngô Thời Nhiệm, bên trái là cité Larégnère, nơi cư ngụ của các nhân viên, giáo sư người Pháp; Bên phải là một sân tennis giờ nó là một phần của câu lạc bộ thể thao Hồ Xuân Hương. Ở ngả tư với Hồ Xuân Hương, nếu rẽ trái chúng ta sẽ tới Bệnh viện Bạc Hà (Hoa liễu) và trường Collette.


Cité Larégnère nhìn từ trên cao


Đoạn Bà Huyện Thanh Quan, bên trái là Cité Larégnère , bên phải là khu sân Tennis






Ngả tư Bà Huyện Thanh Quan - Hồ Xuân Hương


Giờ chúng ta đã tới ngả tư với đường Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) rồi ngả tư với đường Trương Minh Ký (Nguyễn Thị Diệu). Nhìn sang bên đường là một biệt thư lớn và trường Anh văn Nguyễn Ngọc Linh, là chúng ta đã tới ngả tư với đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần). Không khí của đoạn đường này trở nên náo nhiệt vì sự có mặt của một số trường tư thục và các tiệm buôn bán. Cuối cùng đường Bà Huyện Thanh Quan chấm dứt ở ngả ba với đường Hồng Thập Tư (Nguyễn Thị Minh Khai) nhìn sang bên vườn Tao Đàn.



 Ngôi biệt thự từng được rao bán 35 triệu đô






Thứ Năm, 7 tháng 12, 2017

Sài Gòn chuyện đời của phố:

Hoài vọng Tân Định - Đa Kao





Từ Phú Nhuận đi qua cầu Kiệu, khu Tân Định như mở ra một thế giới khác của Sài Gòn.

Con đường Trần Quang Khải bắt đầu không gian đó, với cây cao bóng cả sang trọng như ấp ủ một thời Sài Gòn xưa cũ đầu thế kỷ.
Ông anh cả của tôi học trường Văn Lang ở đường Trần Quý Khoách vẫn nhắc tới Giáo sư - nhà thơ Vũ Hoàng Chương ròm tom, đi dạy học trên chiếc xích lô đạp, đầu những năm 1960. Nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan, nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương cũng dạy ở trường này. Lớp có hơn 90 học sinh, ngồi chen chúc như cá mòi hộp.
Ông Dương Hữu Đạt hồi nhỏ sống trên con đường Albert Premier, nay là Đinh Tiên Hoàng, đoạn Q.1. Ông cho rằng người Sài Gòn thời đó sống chân chất, hiền lành hơn, mâu thuẫn giữa người Việt và Pháp cũng không gay gắt. Những người dân nghèo từ lục tỉnh lên sống lang thang trên đường phố khu Đa Kao, đánh giày hay bán sách dạo in bằng tiếng Pháp cho những bà đầm, anh lính hay viên công chức người Pháp. Họ kiếm sống từng bữa, ăn cơm hàng cháo chợ tằn tiện và không tham lam. Nhiều lần ông thấy những người lính Tây say rượu nằm lăn ra trên đường ngủ, bỏ mặc xe đạp bên lề đường. Mấy người đánh giày hay bán sách dạo dựng xe của họ lên, đạp mấy vòng phố xá chơi cho biết rồi đem đặt trở lại chỗ cũ. Những người đạp xích lô đầu những năm 1950 hay đậu xe bên lề đường này chờ khách. Họ thích uống cà phê bít tất, đổ ra dĩa cho mau nguội, uống nhanh để còn lo chạy mối. Trong khi chờ khách, họ nằm khểnh đọc báo Sài Gòn Mới của bà Bút Trà, mải mê đọc truyện của các ông Thiếu Lăng Quân, Phi Long… Ông Đạt nghe mấy bà đầm Pháp kháo nhau rằng thật đáng ngạc nhiên khi dân lao động nghèo trên phố Sài Gòn rất thích đọc báo và có khi đọc sách nữa, điều không thấy có ở tầng lớp dân nghèo kiếm sống lề đường bên Pháp.
Khoảng thời gian đầu thập niên 1950, khu Đa Kao xôn xao vì một vụ tự tử thương tâm. Người chết là một bà xẩm - tên thường gọi phụ nữ người Hoa. Bà thuộc nhóm phụ nữ Hoa giúp việc nhà rất được người Pháp tin cậy, trả lương cao, cho phép đánh đòn con nít Tây. Bù lại, họ trung thành với chủ, sạch sẽ, nấu ăn ngon, dạy dỗ và thương yêu đám con nít. Người phụ nữ bất hạnh trong câu chuyện này không có gì sai sót trong mắt ông chủ giàu có người Pháp, chủ hãng xe Rồng Xanh (Dragon Vert). Tuy nhiên, một ngày kia ông phát hiện bị mất một số tiền lớn và bà xẩm bị nghi ngờ. Không biện minh được, bà xẩm thắt cổ tự tử để chứng minh sự trong sạch.
Người dân ở đây sống lâu với người Pháp nên hiểu họ khá rõ. Với tâm trạng tha hương, những anh lính hay giới công chức Pháp thích hưởng thụ xả láng cuộc sống vui chơi ở thuộc địa, nhiều người chìm đắm trong men rượu hòng quên đi nỗi nhớ quê hương và những nỗi căng thẳng khác. Đồng lương của họ được xài phung phí, chỉ sau vài ngày lãnh lương là gần cạn. Thỉnh thoảng lại có những trận đánh nhau giữa phu xích lô, thợ đánh giày với những người Pháp say rượu trước mấy cái nhà hàng khúc đường trước rạp hát Casino.
Sau khi tin tức về trận Điện Biên Phủ lan về Sài Gòn, người Pháp khu Đa Kao buồn và thu mình lại.
Có dạo tôi thường ghé nhà một anh chuyên rửa ảnh đen trắng thủ công trên con đường này. Trong lúc chờ đợi in ảnh, tôi đi bộ quanh khu Tân Định, hỏi dò vài người sống quanh đó về một quán cà phê mở sau 1975 của đôi vợ chồng nghệ sĩ Từ Dung - Từ Công Phụng mang tên “Từ Dung”, có chiếc piano trắng nhưng không ai biết quán đã từng đặt ở đâu. Tôi đi ngó đồ bán “xôn” trên lề đường, đi tràn sang phía bên khu xóm Vạn Chài và dọc đường thơ thẩn, tôi phát hiện có quá nhiều cái đình chỉ trong một khoảnh đất không lớn. Đình Nam Chơn, rồi đình Phú Hòa từng là nơi có quán cà phê của nghệ sĩ nổi tiếng Bảy Nhiêu, thân phụ của các nghệ sĩ Kim Cúc, Kim Lan. Đình Sơn Trà trên đường Nguyễn Phi Khanh. Trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm là đình Tân An. Đình Nghĩa Hòa cũng trên đường Trần Quang Khải.
Sau này đọc sách mới biết xóm Vạn Chài ở vùng Đa Kao này là xóm của những người dân chài từ miền Nam Trung bộ di dân vào. Khi đã ổn định, họ lập ra tới bảy ngôi đình để tiếp tục thờ Thành hoàng của làng đánh cá ở quê cũ, mà họ gọi là vạn.
Bác Hai, chủ tiệm rửa ảnh kể tôi nghe về những hàng quán ngon lành mà giới công chức cao cấp thời trước 1975 thích ghé như nhà hàng Casino Đa Kao, có món độc đáo nhất là món tôm hùm đút lò. Nhà hàng cơm Tây La Cigale (Con ve sầu) trên đường Đinh Tiên Hoàng và Phan Đình Phùng (Nguyễn Đình Chiểu) có món tôm cua ốc.
Ở đô thị Sài Gòn cũ, khu Đa Kao - Tân Định có thể nói tập trung nhiều tinh hoa của thành phố này nhất. Đó là vùng đất tụ hội những người tài hoa, cá tính, sành điệu... thể hiện nhiều nhất lối sống Sài Gòn cũ.
                                                               Phạm Công Luận
                                            (trích Sài Gòn, chuyện đời của phố, tập 3)



Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017


Một Thời May Mặc
Đa Kao &Tân Định



Cố gắng ghi lại những gì còn đọng lại trong ký ức, để bà con Đa Kao & Tân Định, cũng như những ai thương mến vùng đất hiền hoà này tìm lại chút kỷ niệm: Một Thời May Mặc của vùng Tân Định và Đa Kao.( tdp)

 Nhu cầu chưng diện và làm đẹp thời nào cũng được mọi người quan tâm đến. Trước năm 1975, dù chỉ là một khu vực không lớn của thành phố Sàigòn, nhưng vùng Đa Kao và Tân Định đã xuất hiện rất nhiều tiệm may.

Có thể kể trên đường Yên Đổ đi từ phía đường Công Lý ra đến đầu đường Hai Bà Trưng sẽ gặp những tiệm may nổi tiếng như: Trường số 12 Yên Đổ, Văn Minh số 2 Yên Đổ. Hai tiệm may áo dài Phương Mai ở đầu hẻm 58 và Huỳnh Lộc ở đầu hẻm 21. Bây giờ các tiệm may này không còn tồn tại nữa! 

Duy nhất, còn tiệm may Hai Ve số 82/4 cùng nằm trên đường này. Ông chủ tên Võ Văn Ve. Gia đình ông từ Thủ Đô Nam Vang chạy về Sàigòn lánh nạn để khỏi bị "cáp duồng.” Dáng người ông thấp, nước da sạm đen, đầu hói, độc đáo nhất là hàm ria giống tài tử Clark Gable trong phim “Gone with the Wind.” Ông mở tiệm may Âu phục và Nón. Chính nhờ may nón mà đã giúp ông kiếm được nhiều tiền và được nhiều người biết tiếng. 

Các tay chơi, dân sành điệu của Sàigòn trước 1975 đa số đều đội nón do ông may với Logo trên nón có hai chữ HV. Nay, nghề may nón của ông coi như không còn hợp thời nữa! Vì ra đường bà con bắt buộc phải đội nón Bảo Hiểm (Helmet), hay còn gọi tên bình dân là đội “Nồi Cơm Điện” để lái xe hai bánh gắn máy. Người lái xe không chấp hành sẽ bị phạt vi cảnh, mà số tiền phạt không phải là nhỏ. Do đó, ông chỉ còn may Âu Phục là chính. Tuy tuổi đời đã ngoài bảy mươi, nhưng ông vẫn còn  tiếp tục cầm kéo để vui với tuổi già và làm đẹp cho thiên hạ. 

Bây giờ phải kể thêm những nhà may một thời được giới học sinh, bà con lao động lui tới, nhưng nay cũng không còn: 
Nguyễn Hà số 73 B đường Huỳnh Tịnh Của, Tài nằm trong hẻm 60 xóm Cù Lao và Phước trong hẻm 62 xóm Nhà Đèn. Tiền công ở đây tính giá rất bình dân. 

Ngoài ra, có bác thợ may tên Phôn cũng ở trong xóm Nhà Đèn. Ông chỉ may tại nhà, khách hành phải tự tìm đến ông, đa số là dân sang trọng và lịch lãm vì ông may rất đẹp. Ông đo, cắt, may tùy theo vóc dáng từng người. Vài tiệm may lớn ở Sàigòn nghe tiếng đến mời ông hợp tác với tiền lương hậu hĩnh hoặc chia theo tỷ lệ, nhưng ông khước từ.
Bích Hùng nằm phía đầu đường Trần Quang Khải và Hai Bà Trưng, gần hãng Gạch Bông Vân Sơn. 
Thái Lai gần Pháp Hoa Ngân Hàng, góc đường Nguyễn Văn Mai - Hai Bà Trưng. 
Đô Hội nằm đối diện nhà thờ Tân Định, đường Hai Bà Trưng.
Paris Mode gần cà phê Thu Hương, góc Hiền Vương - Hai Bà Trưng. 

Trên đường Trần Văn Thạch có:
Lê Châu chuyên may áo dài gần nhà sách Yểm Yểm Thư Quán và rạp hát Moderne.
Tụ Bảo gần tiệm tạp hoá Thế Giới của người Hoa.
Của lúc đầu trên đường Trần Văn Thạch, sau dời sang Trần Quang Khải, gần Ronéo Thông Reo.
Hà Úy số 55 Nguyễn Phi Khanh và Tân Hà nằm ngay góc Hiền Vương và Pasteur. 
Nếu như Hà Nội có Ba Mươi Sáu Phố Phường thì người ta có thể đặt tên Phố May trên khu vực Đa Kao vì nơi đây có nhiều tiệm may lớn như:

Cao Minh trên đường Đinh Tiên Hoàng, gần chè Hiễn Khánh và rạp hát Casino Đa Kao.


Ông Lý Minh chủ nhà may Cao Minh

Chánh trên đường Đinh Tiên Hoàng. 
Dung là một tiệm may “Nịt Ngực” rất nổi tiếng. Nơi đây may tùy theo kích thước của ngực và dáng người. Chủ nhân tốt nghiệp ở Paris về. Khách hàng đa số là các mệnh phụ và giới nghệ sĩ cũng nằm trên đường ĐinhTiên Hoàng, phía sau chợ Đa Kao. 

Ngoài ra, có thể kể thêm: Hoàng Nhân, Diễm, Đỗ Văn, Toàn Mỹ, Lê Lương, Đức Nhuận, Trần Bia, Thanh Sử (trong khu mì Cây Nhãn, nơi đây có bốn căn phố cổ),
Thúy Hồng nằm cạnh Cà phê Hân. 
Trên đường Phan Thanh Giản có: Ưng, Đại Thành, Thanh Thủy gần Võ Đường của Võ Sư Đặng Thông Phong. 
Trên đường Tự Đức có: Hãng May Việt Nam, Nguyệt
Đặc biệt, ba tiệm may áo dài nằm trên ba con đường khác nhau, mà trước 1975 được nhiều bà con tín nhiệm tìm đến. Hiện nay cả ba tiệm vẫn còn là:
Thiết Lập số 268 bis đường Pasteur, Phường 8- Quận 3, đối diện với viện Pasteur.


Nhà may Thiết Lập ngày nay

Phương Luân số 16 Trần Quang Khải, phường Tân Định - Quận 1, đối diện với Đình Nam Chơn. 
Thanh Châu số 244 đường Đinh Tiên Hoàng, Phường Đa Kao- Quận 1, nằm dưới chân Cầu Bông.


Nhà may Thanh Châu ngày nay

Chủ nhân cũ của các tiệm may này không còn nữa! Có thể là do các con cháu hay những người làm cũ đứng ra tiếp tục ? 
Cũng cần nhắc đến môt tiệm may nón nữ lâu đời vẫn còn tồn tại là: Hương số 11 Trần Quang Khải, nằm gần Minh Sư Đạo - Quang Nam Phật Đường, thuộc Giáo Hội Phật Đường Nam Tông. 

Sau 30/04/1975, một nghề mới xuất hiện và rất thịnh hành cho đến nay là: vá, đắp đầu gối, sang sợi, mạng, sửa và lên lai quần Jeans. Hiện nay đoạn đường Lý Chính Thắng (Yên Đổ cũ), dù chỉ một khoảng ngắn từ Huỳnh Tịnh Của ra đến đầu đường Hai Bà Trưng, hai bên đường có hơn mười mấy tiệm. Nổi tiếng và lâu năm nhất là tiệm Hoàng số 48 Lý Chính Thắng chuyên may, sửa quần Jeans rất có uy tín, kinh nghiệm, giá phải chăng, nên rất đông khách.

Thời gian trôi qua đã quá lâu. Những hình ảnh ngày xưa thân ái đã phai nhạt nhiều. Không thể nào kể ra đầy đủ được. Chắc chắn còn rất nhiều thiếu sót. Xin được thông cảm. 

Cố gắng ghi lại những gì còn đọng lại trong ký ức, để bà con Đa Kao & Tân Định, cũng như những ai thương mến vùng đất hiền hoà này tìm lại chút kỷ niệm: “Một thời may mặc của vùng Tân Định và Đa Kao.” 

Trần Đình Phước
(San José, California 2016)

Thứ Sáu, 1 tháng 12, 2017

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                     1301. Cổng chánh vào phi trường Tân Sơn Nhứt ngày xưa và giờ đây.


                     1302. Tòa đô chánh xưa và nay.


                     1303. Giao lộ Công Lý - Lê Lợi xưa và nay.


                     1304. Bùng binh Lam Sơn xưa và nay.


                     1305. Một đoạn Nguyễn Huệ cùng vị trí xưa và nay.


                     1306. Góc Tự Do - Nguyễn Thiệp xưa và nay.


                     1307. Đoạn Phan Văn Hùm xưa và nay.


                     1308. Ngả tư Đinh Tiên Hoàng - Tự Đức xưa và nay.


                     1309. Góc Đồng Khánh - Lương Nhữ Học xưa và nay.


                     1310. Vị trí nhà hàng Chez Albert đường Đinh Tiên Hoàng xưa và nay.


Nguồn Trung Ngo, Paul Blizzard, Tim Doling

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...