Thứ Hai, 12 tháng 9, 2016

Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964
                                                                             
(Tiếp theo)


1954-1964: mười năm hận thù chống lại Pháp
Những người Bắc di cư năm 1954
Hiệp định Geneve tập hợp hai nhóm tham chiến về hai bên của vĩ tuyến 17, cho phép về phía dân sự chọn lựa khu vực nào họ muốn. Sau một thời gian 300 ngày, hơn 900 000 người trong đó gần 50% nông dân Công giáo rời miền Bắc do lý do chính trị, kinh tế và tôn giáo (7). Các tác giả của các cuộc biểu tình chống Pháp năm 1964 là từ nhóm người di cư này. Nếu xác định chính xác là tác giả của việc cướp phá tòa đại sứ, nguồn gốc của sinh viên và người biểu tình tất nhiên cũng được biết đến. Ban điều hành của tổng hội sinh viên gồm Chủ tịch Lê Hữu Bội, tùy viên sở ngoại giao Lê Đình Điểu và người đứng đầu Ủy ban Hành động Nguyễn Trọng Nho đều là người miền Bắc. Lập trường chống cộng của họ được xác nhận theo năm tháng. Người thứ nhất bị giết trong cuộc chiến tại Huế năm 1968. Người thứ hai điều hành phòng thông tin quốc gia của Bộ Tuyên truyền và Chiêu Hồi (Bộ Dân Vận Chiêu Hồi) vào năm 1972 và người thứ ba trở thành đại biểu của quốc hội giữa năm 1967 và 1975 (8)
Nhưng ngoài các sinh viên, còn có đám đông đã biểu tình bên ngoài những biểu trưng của Pháp và kỷ niệm mười năm của Hiệp định Geneve. Theo các cơ quan thông tin chính phủ, một triệu người biểu tình hiện diện tại buổi lễ chính thức của "Ngày quốc hận" ngày 19 Tháng 7 năm 1964 (9). Nếu con số này có vẻ phóng đại, phóng sự của báo Thời Luận báo cáo rằng các nhà tổ chức đã bị choáng ngợp bởi số lượng bất ngờ của người tham gia (10). Có lẽ nào chính phủ đã điều động tất cả công chức của mình để làm tăng số lượng như đã từng làm trong dịp lễ năm 1965 (11), nhưng sự tham gia lớn khiến chúng ta nghĩ rằng một số trong số họ đến tham gia một cách tự nhiên. Người di cư Công giáo đã được huy động trong suốt năm 1964 để chống lại phân biệt đối xử đối với họ là một phần của cuộc biểu tình (12).
Trong một cách tổng quát hơn, những người di cư luôn phản đối và chống lại sự bất công của hiệp định Geneve. Cuộc sống của họ đã thay đổi khi quê hương của họ bị những người Cộng sản chiếm đóng. Bất kể công tác tuyên truyền được thực hiện bởi chính phủ Ngô Đình Diệm, họ luôn nuôi dưỡng các mong muốn trở lại một ngày và mong muốn một nước Việt Nam thống từ Bắc vào Nam. Một số cảm thấy nổi niềm hoài hương sâu thẳm. Những người khác thuyết phục rằng cần thiết phải chống lại chủ nghĩa cộng sản mà họ coi là chịu trách nhiệm cho cuộc tha hương này. Những người di cư hiếu chiến nhất là những người đã chiến đấu chống lại những người cộng sản Việt Nam trong cuộc chiến tranh Đông Dương. Thành viên của các đảng dân tộc muốn phục thù cuộc chiến này cho lãnh đạo của đất nước. Nhiều nghệ sĩ, nhà báo và trí thức cũng lựa chọn để đi vào Nam. Cuối cùng, người Công giáo kiên quyết đấu tranh chống lại những gì họ nghĩ là một mối đe dọa vô thần. Các giáo phận đấu tranh vũ trang như  Phát Diệm và Bùi Chu chống Việt Minh vào năm 1949 đã mang tín đồ của họ trong toàn bộ ngôi làng để di chuyển vào Nam năm 1954 (13). Trong số tất cả những người di cư, Các “cựu binh” là những người hung hăng nhất của cuộc chiến tranh ở Đông Dương.


Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, một số trong những "cựu binh" đã được cách ly. Nhưng phần lớn, bao gồm cả người Công giáo, hình thành xương sống của nền cộng hòa, giữ nhiều vị trí quan trọng trong quân đội, chính quyền, cảnh sát và giáo dục. Vì cùng tôn giáo, họ chia sẻ với tổng thống ý chí thống nhất Việt Nam và loại bỏ mọi sự hiện diện của cộng sản. Những người di cư bị choáng ngộp bởi viện trợ nhân đạo từ chính phủ Hoa Kỳ và nhiều tổ chức từ thiện quốc tế. Quan trọng hơn, họ đã trở thành trung tâm của sự chú ý phương tiện truyền thông. Câu chuyện về cuộc phiêu lưu của họ Bắc vào Nam vượt qua cảnh cùng quẫn để hướng về sự phát triển bất chấp sự đe dọa của cộng sản là hình ảnh đầy ẩn dụ cho cuộc chiến đấu mà Sài Gòn và Washington muốn nói với dân chúng miền Nam Việt Nam và "thế giới tự do." Vinh quang này, ngoài việc hỗ trợ kinh tế, cuối cùng đã thuyết phục họ rằng họ thể hiện hình mẩu của công dân Việt Nam. Sự công nhận mà họ có được từ chính phủ Việt Nam và vượt qua giới hạn khác biệt đã động viên họ nhìn về một Việt Nam thống nhất và tự do khỏi chủ nghĩa cộng sản, là một nhiệm vụ chính trị xứng đáng với cái tên của nó. Như những con thiêu thân, những thiểu số "cựu binh" đi vào cuộc chiến để gìn giữ độc quyền của tư tưởng chính trị của mình.

Phần chú thích
Lê Đình Điểu. http://ducavn.nl/duca_files/ TrangTuongNiem/LeDinhDieu.htm. Frank Mickadeit. « O.C.’s first Vietnamese judge retires ». Orange County Register, 25/9/2013.
            9  « Cả triệu người tham dự mít tinh gồm đủ các mọi tôn giáo đoàn thể đảng phái » [Un million de participants au meeting, venant de toutes les religions, tous groupes et tous partis]. Thời Luận, 21/7/1964, p. 1 et « Cuộc mít tinh vĩ đại nhân ngày Quốc hận, Một triệu người gồm đủ giới đã tham gia » [Un meeting grandiose à l’occasion du Jour de la honte, un million de participants de tous horizons]. Dân chủ mới, 21/7/1964, p. 1.   
           10  « Biển người tràn ngập công trường Lam Sơn hét vang khẩu hiệu chống Cộng trung lập » [Une mer de manifestants envahit la place Lam Son et hurle des slogans contre le communisme et le neutralisme]. Thời Luận, 21/7/1964, p. 1.
11  Une circulaire interne demande à chaque département de mobiliser 75 % des fonctionnaires pour la célébration du Jour de la honte en 1965. TTLT2/ PThT/Văn Hóa [Culture], 29.400, Tổ chức lễ kỷ niệm «Ngày quốc hận», 20/7/65, 32 tr, [Organisation du « Jour de la honte », 20/7/65 32 p.].
12  Une thèse sur l’activisme politique des Catholiques vietnamiens affirme la participation des réfugiés catholiques à la commémoration des dix ans de la migration, Bùi Chí Thanh. 1968. Công giáo (hoạt động chính trị sau cách mạng 1.11.1963), Saigon, thèse en sciences politiques, p. 89.

13  Trần Thị Liên. 1996. Les Catholiques vietnamiens pendant la guerre d’indépendance (1945-1954) entre la reconquête coloniale et la résistance communiste. Thèse d’histoire, Institut d’études politiques.

Thứ Bảy, 10 tháng 9, 2016

Nhằm để hiễu rõ hơn về phong trào bài Pháp năm 1964, tôi xin giới thiệu bài " Le saccage de lambassade de France de Saigon của tác giả Nguyễn Phi Vân nghiên cứu về vấn đề này.

Sự cướp phá tòa đại sứ Pháp
tại Sài Gòn tháng 7 năm 1964

Phản ứng của những người di cư miền Bắc đối mặt với những mối đe dọa kép về trung lập hóa.
                                                                                                     Nguyễn Phi Vân

* Tác giả xin cảm ơn Đại tá Frédéric Guelton, cựu chỉ huy phòng Lịch sử quốc phòng của bộ lục quân, về sự giúp đỡ của ông.

MỘT CUỘC CHIẾN KHÁC: ĐÔNG DƯƠNG 1954
Kết luận của Hội nghị Geneve năm 1954 đã kết thúc cuộc chiến tranh Đông Dương và đặt ra sự rút lui của quân viễn chinh và quân đội của Nhà nước Việt Nam về phía nam vĩ tuyến 17. Pháp hy vọng vẫn còn đóng một vai trò ở vùng Viễn Đông, nhưng sự nổi lên của của ông Ngô Đình Diệm người chống chủ nghĩa thực dân chấm dứt hy vọng của người Pháp. Một thời gian ngắn sau khi thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, chính phủ Pháp đã ra lệnh rút quân đội của mình vào tháng Tư năm 1956. Kể từ đó, Pháp dường như là một phần của quá khứ. Tuy nhiên, gần một thập kỷ sau khi rời khỏi sân khấu chính trị Việt Nam, vấn đề này vẫn tiếp tục còn là những cảm giác thù địch. Vào đầu tháng 12 năm 1963, các cuộc biểu tình chống lại sự hiện diện của Pháp ở Sài Gòn nhân và lên đến đỉnh điểm là sự cướp phá đại sứ quán vào ngày 20 tháng 7 năm 1964. Làm thế nào để giải thích các cuộc tấn công? Thực sự có nghĩa là những hành động này dường như chống Pháp?
Miền nam Việt Nam bị ám ảnh bởi cuộc nổi dậy cộng sản và chìm trong sự hoài nghi sâu thẳm. Kể từ tháng 11 năm 1963, kể từ khi vụ ám sát Tổng thống Ngô Đình Diệm thành công, các chính quyền thay đổi liên tục và đã tạo nên hỗn loạn chính trị. Sự nổi giận ngoài đường phố dường như thiêu cháy Sài Gòn, Huế và Đà nẳng nơi mà những người phật tử mà trước đó đã bị áp bức này trở lại trả thù những người công giáo được chính quyền Ngô Đình Diệm đãi ngộ. Trên chính trường quốc tế, những trận đánh ở nông thôn miền Nam Việt Nam đã gây căng thẳng, thử thách lời hứa của phương tây về sự ngăn chặn lây lan của chủ nghĩa cộng sản. Không chỉ các cuộc bầu cử Mỹ đã trì hoãn về một sự can thiệp nào có thể xảy ra, nhưng đặc biệt là Charles de Gaulle đã đề xuất một sự lựa chọn để chiến đấu chống lại những người cộng sản. Sau khi chấm dứt về cuộc chiến ở Algérie bởi thỏa ước Evian (1962), de Gaulle đề nghị sự trung lập hóa cho sự xung đột ở nam Việt Nam.
Cho đến nay, sự cướp phá tòa đại sứ Pháp tại Sài Gòn đã được giải thích là do sự phản đối lại sự đề xuất của Pháp trong thời gian đó. Tuy nhiên, theo sự nghiên cứu tỉ mỉ về người biểu tình, cội nguồn và những tuyên bố đã tiết lộ sự huy động của họ đối diện với một mối đe dọa kép. Những người nổi loạn tấn công không chỉ từ sự kêu gọi một lệnh ngừng bắn đến từ Paris, mà là từ xu hướng trung lập có nguồn gốc xuất phát từ bên trong biên giới nam Việt Nam. Đó là lý do tại sao những hành động phá hoại này, dưới hình thức bài Pháp, đúc kết lại đã xác định người biểu tình đấu tranh trên cả hai mặt bên ngoài và nội bộ: Sự đề xuất của de Gaulle một mặt và phong trào trong nước cho một lệnh ngừng bắn một mặt khác.


Cuộc biểu tình chống Pháp vào năm 1964
Từ tháng 12 năm 1963 và trong suốt năm 1964, các cuộc biểu tình tiếp tục tăng lên tại những nơi biểu trưng của Pháp ở Sài Gòn. Ngày 20 tháng 12 năm 1963, 2000 sinh viên và học sinh trung học biểu tình bên ngoài đại sứ quán. Ngày 01 tháng giêng, họ tầy chay một buổi tiếp tân tại Alliance française. Mười lăm ngày sau, cuộc biểu tình khác đã được tổ chức trong cùng một nơi, lần này ở Mission culturelle đường Catinat (Tự Do) cũng như các trường J.J. Rousseau và Marie Curie. Ngày 19 tháng bảy năm 1964 khi chính phủ Nam Việt Nam tổ chức lễ kỷ niệm mười năm của Hiệp Định Geneve như một phần của "Tuần lễ quốc hận”, gần một triệu người biểu tình tăng qua các đường phố. Trong đám đông, người ta có thể nhìn thấy những người đàn ông trẻ tuổi vung một hình nộm của Tướng de Gaulle nắm tay nhau với Hồ Chí Minh. Sau đó, trong đêm, sinh viên xúc phạm tượng đài người Pháp hy sinh tại quãng trường Đài chiến sĩ. "Đả đảo thực dân Pháp! " " Đả đảo de Gaulle! " " Đả đảo hiệp định Geneve” được nghe vang lên dọc đường Duy Tân (1). Họ tháo gỡ bảng ghi công bằng đồng và đổ sơn vào những bức tượng của các chiến sĩ vô danh của đài tưởng niệm. Những bất ổn vẫn tiếp tục. Vào đêm 20 tháng 7, tổng hội sinh viên tổ chức "đêm không ngủ" (2). Hơn một nghìn sinh viên và học sinh trung học đến với nhau trong khuôn viên của đại học văn khoa (3). Một hội thảo và tranh luận về Hiệp định Geneve được tổ chức ở phần đầu tiên của "đêm không ngủ". Rồi họ tản bộ tới dinh thủ tướng và trong các đường phố Sài Gòn. Đến 2 giờ sáng, đám đông dừng lại để hát quốc ca. Cuối cùng, sau khi trở về trường đại học, họ đã hát bài hát của Phạm Duy  quanh lửa trại cho đến khi bình minh. Nhưng trong cái đêm đó, một nhóm khoảng một trăm học sinh tràn vào đại sứ quán Pháp. Những người biểu tình đã xông vào sân, lật một chiếc xe hơi và đốt một chiếc khác. Không bằng lòng với những gì họ đã làm, họ họ phá vỡ tất cả các cửa sổ của hành lang và xé thành từng mảnh lá cờ tam tài. Hai ngày sau đó, tổng hội sinh viên đã tổ chức một cuộc họp báo để giải thích hành động này. Họ tuyên bố có phá hoại tượng đài nhưng từ chối trách nhiệm của việc cướp phá tòa đại sứ. "Chúng tôi sẽ đánh sập hơn các biểu tượng," Chủ tịch tổng hội tuyên bố. "Nhưng sau đó chúng tôi sẽ sử dụng cách hành động văn minh hơn để tiêu diệt những dấu tích đáng xấu hổ như bức tượng này không đại diện cho những người lính đã chiến đấu cho nền độc lập của đất nước này." (4) Chủ tịch tổng hội tuyên bố đòi hỏi thêm ba điều: cắt đứt quan hệ ngoại giao với Pháp, quốc hữu hóa tất cả tài sản của Pháp và việc xây dựng một tượng đài binh sĩ Việt Nam (5). Đám đông bí mật, lực lượng sinh viên và hàng ngàn người biểu tình dường như để tấn công các biểu trưng của Pháp ở Sài Gòn, bất chấp sự ra đi của chính quyền thực dân trước đây mười năm. Tại sao sinh viên tức giận đã đạt một mức độ của sự bạo lực? tình báo Pháp bị nghi ngờ các thành viên của trong nội các âm mưu chống lại Tướng Nguyễn Khánh, là người đứng đầu đất nước (6). Quan hệ xấu với Paris và là áp lực không tự chủ của sinh viên có thể có thể hạ bệ chính phủ. Trong thực tế, không phải vấn đề này hay vấn đề kia bộc phát đã tạo nên. Bài luận đề này có thể mang lại sự giải đáp cho sự cướp phá tòa đại sứ. Tuy nhiên, nó không giải thích mức độ và sự tái phát của tinh thần bài Pháp từ tháng 12 năm 1963. Đó lý do tại sao một nghiên cứu về những người biểu tình là cần thiết để hiểu những sự kiện này.

Phần chú thích
1  « Tổng hội sinh viên và học sinh đã đạp phá công trường chiến sĩ vào lúc nữa đêm 19-7 » [L’Association générale des étudiants et lycéens ont vandalisé la Place des Combattants dans la nuit du 19-7]. Thời Luận, 21/7/1964, p. 1.
2  Selon le reportage spécial du journal Tự do, « Thức trắng một đem với Sinh viên, 2 giờ đêm hát quốc ca và mặc niệm giữa đường phố đẻ kỷ niệm giờ bán nước » [Une nuit blanche avec les étudiants, qui chantent l’hymne national à 2 heures du matin afin de commémorer l’heure à laquelle la nation a été vendue]. Tự do, 22/7/1964, p. 1.
3  Deux jours plus tard, l’Association des étudiants annonçait 3 000 participants, « Trong một cuộc họp báo sôi nổi, Tổng hội sinh viên nhìn nhận có đập phá công trường chiến sĩ Pháp và 1 lần nữa phủ nhận việc ở Toà Đại sứ, đòi đoạn giao tịch thu tài sản Pháp » [Dans une conférence de presse animée, l’Association générale des étudiants reconnaît le vandalisme de la Place des soldats français et une fois encore nie la responsabilité de l’attentat de l’Ambassade, demande la rupture des relations diplomatiques et la nationalisation des biens français]. Dân chủ mới, 24/7/1964, p. 1.
4  « Đoạn giao với Pháp » [Rupture des relations diplomatiques]. Tự do, 22/7/1964, p. 4. « Tổng hội sinh viên lên tiếng » [L’Association générale des étudiants prend la parole]. Thời Luận, 24/7/1964, p. 1.
5  « Đoạn giao với Pháp » [Rupture des relations diplomatiques]. Tự do, 22/7/1964, p. 4. , « Trong một cuộc họp báo sôi nổi, Tổng hội sinh viên nhìn nhận có đập phá công trường chiến sĩ Pháp và 1 lần nữa phủ nhận việc ở Toà Đại sứ, đòi đoạn giao tịch thu tài sản Pháp » [Dans une conférence de presse animée, l’Association générale des étudiants reconnaît le vandalisme de la Place des soldats français et une fois encore nie la responsabilité de l’attentat de l’Ambassade, demande la rupture des relations diplomatiques et la nationalisation des biens français]. Dân chủ mới, 24/7/1964, p. 1. Voir aussi « Tổng hội sinh viên lên tiếng » [L’Association générale des étudiants prend la parole]. Thời Luận, 24/7/1964, p. 1.
6  SHD GR/10T, 967, Rapport de l’Ambassade de France sur la situation politique au Vietnam en août 1964 au Ministre des affaires étrangères, 31 août 1964, p. QI1. SHD GR/10T, 973, Bulletin de renseignements du SDECE sur le Général Do Mau et la francophobie au Sud-Vietnam. Douglas Pike suspecte également des officiers du gouvernement à l’origine de l’attentat, Politics In South Vietnam,  May 1968, Folder 01, Box 16, Douglas Pike Collection: Unit 06 - Democratic Republic of Vietnam, The Vietnam Center and Archive, Texas Tech University. Accessed 29 Apr. 2014. Dans ses mémoires, Độ Mẫu utilise la forme passive pour évoquer ces manifestations et se dégage par conséquent de toute responsabilité. Độ Mẫu. 1993. Việt Nam máu lửa quê hương tôi, Westminster, NXB Văn Nghệ, p. 684.
7  Le chiffre officiel est de 928 152 migrants arrivés dans le Sud, Bùi Văn Lương. 1959. « The Role of Friendly Nations », dans Vietnam: The First Five Years, An International Symposium, sous la dir. de Richard W. Lindholm, East Lansing, Michigan State University Press,  p. 48-54 mais pour une discussion des chiffres, voir John Prados. « The Numbers Game: How Many Vietnamese Fled South in 1954? ». The VVA Veteran (The Official Voice of the Vietnam Veterans of America), 01-02/2005,  et Đặng Phương Nghi. (2002). Về số ngừoi công giáo di cư từ Bắc và Nam sau hiệp định Genève.Visitéle15/09/2009, http://vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=20311. Pour les motivations, voir Peter Hansen. 2009. « The Virgin Heads South: Northern Catholic Refugees and their Clergy in South Vietnam, 1954-1964 », dans Casting Faiths, Imperialism and the Transformation of Religion in East and Southeast Asia, sous la dir. de Thomas David DuBois, Basingstoke, Palgrave Macmillan, p.129-153, Peter Hansen. « Bắc Di Cư: Catholic Refugees from the North of Vietnam, and Their Role in the Southern Republic, 1954-1959 », 2009. Journal of Vietnamese Studies, 4(3),173-211 ainsi que les histoires de l’église catholique de Nguyễn Quang Hưng. 2003. Katholizismus in Vietnam von 1954 bis 1975, Berlin, Logos-Verlag et Trần Tâm Tỉnh. 1978. Dieu et César, Les Catholiques dans l’histoire du Vietnam, Paris, Sud-Est Asie.


                                                                                               (Còn tiếp)


Sinh viên biểu tình chống Pháp tại Sài Gòn (21-7-1964)


Lễ kỷ niệm “ngày Quốc hận 20-7” của Việt Nam Cộng hòa (19-7-1964)

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ
    

                             961. Quai le-Myre-de-Vilers/quai Francis Garnier/bến Bạch Đằng trãi qua dòng thời gian.




                             962. B
oulevard Charner/Lê Lợi qua dòng thời gian.



                             963. Một đoạn đường 
Tự Do (Đồng Khởi) năm 1971 và hiện nay.




                             964. Ngã tư Công Lý - Yên Đổ ngày xưa và ngả tư 
Nam Kỳ Khởi Nghĩa-Lý Chính Thắng hiện nay.




                             965. Công viên 
Đống Đa xưa và nay.




                             966. Một góc khác của c
ông viên Đống Đa xưa và nay.




                             967. Bên góc của cư xá Brink đường Hau Bà Trưng ngày xưa và hiện nay.





                             968. Đường ray xe lửa trên đại lộ 
Hàm Nghi ngày xưa nay không còn.




                             969. Giao lộ 
Lê Thánh Tôn-Thủ Khoa Huân xưa và nay.




                             970. Vị trí thượng tọa 
Thích Quảng Đức tự thiêu và cùng vị trí hiện nay.




Nguồn Tim Doling, Trung Ngo, Paul Blizard

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

Tôi xin giới thiệu với các bạn bản lược dịch bài viết về cộng đồng người Ấn ở Đông Dương của tác giả K.S. Sandhu & A. Mani, G. Vidy. 


Cộng đồng người Ấn ở Đông Dương

Phần giới thiệu
Trong công trình nghiên cứu chung của K.S. Sandhu & A. Mani (éds), Indian Communities in Southeast Asia (1993) gồm 983 trang nói về cộng đồng Ấn Độ sống ở Đông Nam Á thời kỳ đương đại. Chương về Đông Dương (Cam Bốt, Việt Nam và Lào): " Những người Ấn ở Đông Dương” được giới hạn trong 12 trang! Ngược lại, bán đảo Mã Lai, bởi sự đa dạng của các bài báo đề cập đến nó, nổi lên như một điểm liên kết của cộng đồng người Ấn Độ trong khu vực.
Một điều mà phản ánh theo cách riêng của mình sự biến dạng gây ra bởi vai trò chi phối của chính trị thuộc địa trong sự mở rộng các cộng đồng Ấn Độ.


1. Khuôn khổ thuộc địa và sự mở rộng của cộng đồng Ấn Độ trong khu vực Đông Nam Á.
Từ nửa sau của thế kỷ XIX, các cường quốc thực dân ở Đông Nam Á (chủ yếu là Anh, Pháp và Hà Lan) tổ chức lại và điều chỉnh thương mại khu vực trong lợi nhuận của họ. Đổi lại, chủ nghĩa thực dân với hệ quả của nó – được tiếp sức bằng tiến bộ giao thông vận tải - thúc đẩy phong trào di cư của người Ấn Độ bởi công việc lao động cần thiết cho các cơ hội kinh doanh được cung cấp bởi nền kinh tế của chủ nghĩa thực dân:
a. Sự phát triển của khu vực trồng trọt cho nhu cầu thương mại: Đồn điền cao su, trà, cây cọ ở Mã Lai thuộc Anh, các đồn điền thuốc lá ở Bắc Sumatra – được sự ủng hộ một dòng người lao động nông nghiệp Ấn Độ….. và "giá rẻ" (những cu li giỏi = "tiền lương" trong tiếng Tamil). Miến Điện một tỉnh của đế chế Ấn Độ thuộc Anh, cho thấy các trung tâm đô thị của nó được thống trị bằng hành chính và kinh tế bởi người Ấn (280.000 người Ấn Độ ở Rangoon vào năm 1941).
b. Đối với các mạng lưới thị trường Ấn Độ, họ thích ứng với môi trường kinh tế và hậu cần mới (tăng tính di động của lao động và vốn), do đó việc duy trì truyền thống thương mại năng động lâu dài của họ ở nhiều thành phố đông nam châu Á, từ Yangon đến Manila. Bao gồm các công ty Sindhi lập ở Sài Gòn, Batavia, qua Yokohama và Panama, chưa kể đến các vị trí kinh tế chi phối tại Miến Điện bởi đẳng cấp kinh doanh của người Chettiars (gốc Tamil Nadu), mà sự hiện diện của họ cũng được nhấn mạnh ở Đông Dương.

2. Đông Dương thuộc Pháp
Đối với sự chính xác của trường hợp Đông Dương, so với Liên bang Mã Lai, người Ấn thuộc Hà Lan hoặc thậm chí với Thái Lan (ước tính khoảng 20.000 người vào năm 1921), thì sự hiện diện của người Ấn rất hạn chế. Niên giám thống kê của chính quyền thực dân đưa ra con số 4.000 vào năm 1921 và 6.000 vào năm 1936. Họ cũng chỉ ra rằng phần lớn các người di trú Ấn Độ đến là ở giữa hai cuộc chiến.
Trong thực tế, không phù hợp với bất kỳ kế hoạch tuyển dụng ồ ạt lao động nào, không phải là một phần của một kế hoạch tuyển dụng lớn bất kỳ lao động bên ngoài (các "cu li người An Nam và Trung Hoa" đã chiếm chổ trong nền kinh tế địa phương), điều này sự hiện diện của người Ấn có đặc điểm là:
- Vào mức độ xã hội nghề nghiệp, bởi ưu thế của thương nhân và nhân công nhỏ;
- Một vị trí trong khu vực đô thị, và nhiều hơn nữa đặc biệt là tại thủ đô Phnom Penh và Sài Gòn-Chợ Lớn;
- Dân bản địa chủ yếu trong khu vực Tamil Nadu (khu vực phía đông của Deccan và Tamil nói) và bao gồm hai vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý của Pháp ở Ấn Độ: Pondicherry và Karaikal. Người Ấn Độ khác từ các tỉnh Tây Bắc của Ấn Độ thuộc Anh (gujratis, Sindhi và Punjabi);
- Cuối cùng, sự phân tách tôn giáo giữa người Kitô giáo, Ấn giáo, Hồi giáo và người Sikh.
Dựa trên khảo sát của Marcel Ner đã thực hiện vào năm 1937 trong các giáo đoàn Hồi giáo Ấn Độ có thể thúc đẩy các dữ liệu chi tiết hơn - và chúng tôi thêm phần của chúng tôi trong một số nhận xét về chất lượng như sau:
- Phần lớn người Hồi giáo Ấn Độ từ vùng Tamil Nadu dưới sự cai trị của Anh (Kouthanallur, Madras và Mayavaram). Ông Ner ước tính lên vị trí số một ngàn; về cơ bản bao gồm Nam Kỳ, đặc biệt là ở Sài Gòn. họ có tư cách của "đối tượng thuộc Anh";
- Những người Ấn  Hồi giáo thuộc Pháp, chủ yếu là gốc Tamil, khoảng hai trăm. Đa số đến từ vùng Karaikal, đặc biệt là tại Hà Nội và Phnom Penh. Chỉ có một số ít người đã chọn cho tình trạng của "từ bỏ Ấn Độ"; và do đó trở thành "công dân Pháp ". Hầu hết đã giữ được trạng thái của "đối tượng thuộc Pháp" để tránh bị chi phối bởi luật dân sự Pháp và như vậy thuộc thẩm quyền của luật tục Hồi giáo;
- Người Panthan khoảng hai trăm năm mươi người. Chủ yếu các thành thị Cam Bốt (nghề bán thịt) và Sài Gòn (nghề gác dan);
- Cuối cùng, thiểu số hơn - nhưng không giàu có - chỉ ra một vài chục người Shiite Gujratis khu vực Surat, đã thiết lập các cửa hàng của họ ở Phnom Penh và Sài Gòn. Rõ ràng, hai tiểu nhóm cuối cùng có tư cách của "đối tượng thuộc Anh".
.Trong số những người Ấn sống trong các đô thị Đông Dương, ngoài các người Ấn Hồi giáo bán vải và những người làm nhân viên người Pondicherry theo đạo Thiên Chúa ra còn có người « chetty» hay « chettiar » chuyên cho vay tiền. Đây là gương mặt nổi bật của người Ấn sống ở Đông Dương.

Các tộc người Ấn, tôn giáo và nghề nghiệp

Danh sách các thương buôn người Ấn tại Sài Gòn



Người Tamil
Người Tamil sống miền Nam Ấn Độ, hay chính xác hơn ở tỉnh Madras. Họ chiếm phần lớn của người dân Ấn Độ ở Đông Dương (2 000).
Chúng ta có thể phân biệt giữa người Tamil: có nguồn gốc của bờ biển Coromandel hay có nguồn gốc từ Quận "Ramnad", thường được biết đến nhiều hơn ở
Sài Gòn với cái tên "Chettiars", hoặc thường xuyên hơn là Chettys. Những người đầu tiên tham gia vào các ngành nghề khác nhau. Đây là những nhân viên thương mại, buôn bán nhỏ, bán sữa, nhà hàng, cửa hàng thực phẩm; họ là những người cư ngụ lâu dài. Một số kết hôn với người Việt Nam và sống ở các huyện ngoại thành của thành phố Sài Gòn họ còn cho ra đời làng sữa tại Camp des Mares (thành Ô Ma). Người Tamil Coromandel dễ dàng nhận biết bởi nét hóa trang màu đồng bói lên nguồn gốc Dravidian của họ.Họ mặc bộ đồ "chomin" màu trắng với những nếp gấp lớn xuống từ thắt lưng đến chân và một chiếc áo nổi bên trên.
Năm 1939 một chiến dịch được tiến hành trên báo chí của Ấn Độ nhằm khuyến khích các đồng hương của họ phải mặc y phục châu Âu đi làm việc trong thành phố; kể từ thời điểm đó ở Saigon trang phục Ấn Độ chỉ có thể nhìn thấy trên đường phố xung quanh các chợ và các khu vực của người Ấn (đường Ohier).
 Đối với phụ nữ Tamil mặc "sari" màu sắc rực rỡ, mái tóc chải dày điểm hoa lài hoặc được kẹp lại bởi lược vàng lập với sáng, tai và lỗ mũi được trang trí với đồ trang sức kín đáo, một điểm bằng gỗ đàn hương dán trên trán, đôi khi chúng ta nhìn thấy họ trong thành phố đi mua sắm hoặc đi đến đền thờ của họ.
Người Chettiars thuộc chủng tộc Dravidian làm nghê ngân hàng, cho vay và thuê ngắn hạn, mang tiếng là người cho vay nặng lời; nhưng với những người hiểu biết họ thì họ ý thức tối đa đến lợi ích của họ, về cơ bản họ có tính  trung thực trong kinh doanh.
Chúng ta còn nhớ vào năm 1936 trong thời kỳ khủng hoảng chính quyền thuộc địa đã trục xuất ba người Chettiars cho vay nặng lãi; biện pháp này đã gần như lập tức báo cáo theo các bước cho chính phủ Anh. Một số chuyên gia tài chính và luật sư tự do nhất trí công nhận người Chettiars năng khiếu kinh doanh ngân hàng bẩm sinh và một kiến thức khá sâu sắc về thói quen tố tụng dân sự.



Người Chettiars người cho vay tiền không được tốt, bởi lãi suát cao hô bị cáo buộc là đã vắt kiệt con nợ. Tranh biến họa trên báo  Presse Indochinoise , n° 245, 20-21/09/1929


Người Chettiars


Hai người Ấn làm nghề cho vay mượn (banquier)
 mà người Pháp và Việt hay gọi là chệt ti

Người Chettiars và Tamil được tập họp lại trong cùng một hiệp hội và cùng thờ phượng Brahma. Ba ngôi đền đã được dựng lên ở Sài Gòn, một dành riêng cho nữ thần Mariamane và hai cái cho thần Soupramanien. Không có ngôi đền nào được xây dựng trên mô hình của các ngôi đền ở miền nam Ấn Độ; như cái ở đường Ohier, quan trọng nhất, là một hội trường rộng lớn với khu trung tâm là nôi trang nghiêm để cho các giáo sĩ Bà la môn; bàn thờ nằm trên một 'gopuram' (tháp) thu nhỏ trang trí với những trụ gạch và bức tượng nhỏ. Thần Soupramanien, hiện thân là  con trai của thần Shiva, nổi tiếng với cuộc chiến mà ông tiến hành chống lại thời đại của các Rishis « Kaliougam » (thời hiện tại), sức mạnh của ông đã kết thúc bởi Mariamane là "Kali", vợ của Shiva, đấng sáng tạo và hủy diệt thế giới. Lễ hội hàng năm được tổ chức với tất cả sự huy hoàng của phương Đông; nổi tiếng nhất là lễ hội tôn vinh thần Soupramanien (lễ hội chettis) trong đó một chiếc xe ngựa bạc rước qua thành phố được đệm bởi dàn nhạc Ấn Độ (sáo naguesourin) và trống (mredingam).



Tiệm đổi tiền của người Ấn, mà người Pháp gọi là Chettiars (Chệt theo tiếng Việt).

Người Bombay
Là người gốc Aryan, họ đến từ tỉnh Sindh (Đông bắc Ấn Độ) hoặc các thành phố lớn của miền Trung và Tây Ấn Độ: Mumbai, Delhi, Varanasi, vv ... Họ có thể dễ dàng phân biệt bởi người Tamil bởi nước da sáng và y phục châu Âu. Trước năm 1945, chỉ có đàn ông nhưng ngày nay phụ nữ Bombay xuất hiện ngày càng nhiều tại Sài Gòn. Với bộ đồ Sari nhiều màu sắc phù hợp với màu da của họ đã tạo một nét đẹp dưới con mắt của những khách bộ hành trên đường Catinat.
 Bộ 'Sari' nói chung là đẹp. Chúng được làm từ một mảnh vải dài vài mét. Phụ nữ người Hindu quấn mảnh vải xung quanh họ với vẻ duyên dáng. Bắt đầu ở thắt lưng, họ sẽ thả một mảnh "sari" của họ trên một vai, che giấu mái tóc đẹp của mình.Bên vài kia, họ thường đặt treo lên một viên ngọc đẹp. Hầu hết các "sari" là bằng voile nhẹ, có in hình hay đồng màu. Phụ nữ ở một vào tầng lớp còn sở hữu tài sản trong một căn phòng lộng lẫy kết vàng hay bạc. Trang trí với một số đồ trang sức đẹp, người phụ nữ Hindu trông rất đẹp.
Các trang phục dân tộc là vô cùng hãnh diện, nó được thiết kế chính xác để hoàn thiện vẻ đẹp của những người phụ nữ với các đường nét duyên dáng. Nó mang lại cho họ rất nhiều ân sủng và nữ tính, và nhiều sự tinh tế.
Người Bombay có tôn giáo là Bà la môn và đặc biệt là những người tôn thờ thần Krishna (hiện thân của Vishnu).
Họ hành nghề buôn tơ; một số nhà của họ ở Sài Gòn là công ty con của công ty lớn có chi nhánh ở Pháp Chottirmall, Nihalchand, vv ...
Trong những năm gần đây, thương mại của họ đặc biệt hưng thịnh và số cửa hàng lụa đã tắng lên.


Thương nhân người Ấn


Chùa Bà Mariamman  ở đường Trương Công Định/Trương Định


Chùa Ông Subramaniam Swamy


Đền Sri Thenday Yutthapani.


Cảnh chợ Sài Gòn 1872, để ý có 2 người Ấn (malabar) và một người Hoa trong chợ

Người Ấn Hồi giáo ở miền Nam Ấn Độ
Ở Ấn Độ, người Hồi giáo tụ họp chủ yếu ở vùng Tây Bắc và Đông Bắc tạo thành Pakistan hiện nay. Thiểu số nằm rải rác ở các Deccan; số lượng dân số của họ giảm dần khi xuống phía nam.
Cộng đồng Hồi giáo ở Đông Dương là gần như hoàn toàn thành viên của các dân tộc thiểu số từ miền nam Ấn Độ.
Xuất xứ từ vùng Tanjore (tỉnh Madras), họ có những đặc điểm tương tự như người Tamil, họ nói tiếng địa phương; nhiều trong số họ đến từ khu vực Karaikal (đặc biệt là những người Ấn ở Hà Nội).
Họ là thương gia buôn vải, thuốc lá, những người cho vay tiền. Họ cư ngụ tại các thành phố của Hà Nội, Huế và Sài Gòn, và trong hầu hết trung tâm các tỉnh.
Rất năng động, giỏi buôn bán, họ độc quyền một số ngành nghề và được biết đến với sự trung thực, lịch thiệp của họ đối với khách hàng.
Họ dựng lên ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Trà Vinh, Huế và Hà Nội các thánh dường Hồi giáo, với những phong cách Hồi giáo thuần khiết nhất. Thánh dường ở Sài Gòn tại đường Amiral-Dupré là đặc trưng nhất. Nó bao gồm một sân bên trong có một hồ nước mà mỗi tín đồ phải thực hiện tẩy rửa của mình trước khi bước vào trong đền thờ. Một hàng hiên bao quanh ba mặt bao quanh bên trong, lát gạch trắng bóng láng, và ở phía sau là một nền cao mà từ đó các giáo sĩ đọc những câu thơ trong kinh Koran. Các tín đồ đền đây với chân trần; đứng hoặc ngồi xổm chéo chân trên thảm lót sàn, họ cầu nguyện cho các tín hiệu được đưa ra bởi người diễn giải mufti.
Ngày lễ Hồi giáo lớn nhất Ramzan (Ramadan) được tổ chức đầy hoành tráng. Những người Ấn Hồi giáo miền nam Ấn Độ hình thánh trong lòng cộng đồng người Ấn một nhóm riêng biệt và hơi tự trị; người ta tìm thấy ở họ sự đoàn kết và tình huynh đệ đó là nền tảng của tôn giáo họ.



Những người Ấn Hồi giáo của Bắc Ấn Độ (người Pakistan).
Họ là những công dân có quyền thế của Pakistan; người Pathans, người Pujab của Tây Punjab và một số từ vùng Baluchistan và Tây Bengal. Cao ráo, nước da sáng, để râu, họ làm nhớ lại  những người lính quân đội tuyệt vời trong quân đội Anh vào năm 1945 đảm bảo cho giao thông ở Sài Gòn. Xa tổ quốc, để lại thân nhân ở quê nhà, họ sinh sống tập trung tại các khu phố nhất định Sài Gòn (rue de Reims, Lagrandière) tại một chục phân khu. Họ khác với các thánh phần của cộng đồng người Ấn, họ chỉ làm những nghề được trả lương thấp: Nhân viên bảo vệ, vệ sĩ cảnh sát; vài trong số họ tham gia vào thương mại.

Tổ chức các hội đoàn người Ấn
Tình trạng di dân người Ấn Độ đến Đông Dương được xác định một quyết định ký vào năm 1944; văn bản này tập họp họ trong những hội đoàn theo từng tỉnh gốc, phương ngữ và tôn giáo. Tồn tại ở Đông Dương là 3 hội đoàn là những người Hồi giáo, người  Ấn Độ và người Pathans. Được thành lập vào mô hình tương tự như các nhóm hành chính khu vực người Hoa, các tổ chức này được ưu đãi với tư cách pháp nhân và được điều hành bởi một giám đốc do các thành viên bầu ra. Những hội đoàn chịu trách nhiệm dân sự với người đứng đầu các khoản nợ của công dân đối với chính quyền với thuế thu nhập cá nhân; cho mục đích này và để trang trải chung của hội, hội có thể được ủy nhiệm tự thu thuế nhất định. Từ khi phân chia nước Ấn Độ thành 2  quốc gia Hindoustan và Pakistan, tổ chức các hội bị chỉ trích và đánh giá là không thực tế với địa lý, như một số người Hồi giáo là công dân của Hindustan và, cũng như, một số người Pakistan không theo đạo Hồi là người Ấn giáo. Người ta đã xem xét lại các nhóm không dựa trên tôn giáo của các thành viên, nhưng dựa trên lòng trung thành chính trị của họ. Thiết lập một lãnh sự quán Ấn Độ tại Sài Gòn, điều này đã dẫn đến hạn chế thẩm quyền của các viên chức lãnh sự Anh đối với người Pakistan.
Rồi các hội đoàn mang tính tương tế (Hiệp hội người Nattukotai Chettiars, Hồi giáo, Tamil Sangham) họp lại dù mang những khác biệt trong cộng đồng người Ấn để tạo thành hai nhóm: Trung ương Hội người Ấn và Hiệp hội người Pathans. Các hiệp hội này cũng vấp phải những va chạm, đó cũng là điều dể hiểu do sự nhạy cảm giữa trong cộng dồng người Ấn. Tuy nhiên hệ thống các hiệp hội hoạt động hiệu quả làm hài lòng cho cả cơ quan hành chính và các bên liên quan.
Đại diện của một trong những nền văn minh lâu đời nhất, người thừa kế của một trí tuệ thế tục, người Ấn Độ định cư ở Đông Dương đã luôn luôn tôn trọng vì sự hiếu khách và chứng minh một lòng trung thành kiên định của họ. Tình trạng mà họ được hưởng, thiệt thòi hơn hơn sự đối xử với người Hoa, tuy nhiên họ được hưởng quyền cư trú, đi lại. buôn bán trên toàn cõi Đông Dương. Trong khi những người Ấn ở Nam Phi, Myanmar thậm chí Sri Lanca lại là nơi họ bị hạn chế nghiêm ngặt và sách nhiễu. Để bảo vệ các đặc quyền này, họ tránh xa những hoạt động chính trị, giữ tính trung lập với cuộc xung đột tại Việt Nam. Họ là một phần của Đông Dương thịnh vượng và hòa bình, hơn nữa họ còn đóng góp một cách hiệu quả để thiết lập quan hệ thân thiện giữa nước.

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...