Tôi có đưa bài về lịch sử hình thành sân bay Tân Sơn Nhứt.
Hôm nay tôi dưa tiếp vấn đề này, đề cập tương đối chi tiết về căn cứ quân sự của
VNCH và Mỹ nằm trong sân bay Tân Sơn Nhứt trong thời gian chiến tranh Việt Nam.
Bài này dịch từ trang https://www.revolvy.com/main/.
Những từ tiếng Anh dịch sang tiếng Việt nói về các đơn vị không quân VNCH có thể
không chính xác như thường gọi, xin các độc giả thông cảm.
CĂN CỨ KHÔNG QUÂN TÂN
SƠN NHỨT
Căn
cứ không quân Tân Sơn Nhứt (1955 -1975) là một căn cứ của Không quân Việt Nam Cộng
hòa (RVNAF). Nằm gần thành phố Sài Gòn ở miền Nam Việt Nam. Hoa Kỳ đã sử dụng
nó như một căn cứ chính trong Chiến tranh Việt Nam (1959 - 1975), làm vị trí
đóng quân cho các lực lượng Lục quân, Không quân, Hải quân và Thủy quân lục chiến
ở đó. Sau sự sụp đổ của Sài Gòn, nó được tiếp quản như một căn cứ của Không
quân Nhân dân Việt Nam (VPAF) và vẫn được sử dụng cho đến ngày nay.
Sân
bay quốc tế Tân Sơn Nhất, (IATA: SGN, ICAO: VVTS) là một sân bay dân dụng lớn của
Việt Nam từ những năm 1920.
Lịch sử ban đầu
Sân
bay Tân Sơn Nhất được người Pháp xây dựng vào những năm 1920 khi đó chính quyền
thuộc địa Đông Dương của Pháp xây dựng một sân bay nhỏ không trải nhựa, được gọi
là sân bay Tân Sơn Nhất, tại làng Tân Sơn Nhất để làm sân bay thương mại cho
Sài Gòn. Các chuyến bay đến và đi từ Pháp, cũng như trong khu vực Đông Nam Á đã
có sẵn trước Thế chiến II. Trong Thế chiến II, Quân đội Đế quốc Nhật Bản đã sử
dụng Tân Sơn Nhất làm căn cứ vận tải. Khi Nhật Bản đầu hàng vào tháng 8 năm
1945, Không quân Pháp đã đem một đội quân gồm 150 binh sĩ vào Tân Sơn Nhất.
Sau
Thế chiến II, Tân Sơn Nhất phục vụ các chuyến bay nội địa cũng như quốc tế từ
Sài Gòn.
Vào
giữa năm 1956, việc xây dựng một đường băng dài 7.200 feet (2.200 m) đã được
hoàn thành và Cơ quan Hợp tác Quốc tế đã sớm bắt đầu công việc trên một đường
băng bê tông 10.000 feet (3.000 m). Sân bay được điều hành bởi Cục Hàng không
Dân dụng Nam Việt Nam và cùng với Quân đội VNCH với tư cách là người thuê nhà nằm
ở phía tây nam của sân bay.
Năm
1961, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã yêu cầu Nhóm Cố vấn Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ
(MAAG) lên kế hoạch mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt. Một đường taxiway (đường băng
rước khách và khởi động) song song với đường băng ban đầu vừa được Công ty E.V.
Lane bàn giao cho U.S. Operations Mission, nhưng cần có khu đỗ xe và kết nối với
đường taxiway. Dưới sự chỉ đạo của Hải quân Hoa Kỳ cơ quan Officer in Charge of Construction RVN, các
hạng mục này được xây dựng bởi công ty xây dựng của Mỹ RMK-BRJ trong năm 1962.
RMK-BRJ cũng đã xây dựng một trạm radar điều khiển không lưu vào năm 1962, và
các nhà ga hành khách và hàng hóa vào năm 1963. Năm 1967, RMK-BRJ đã xây dựng
đường băng bê tông 10.000 feet thứ hai.
Không quân Việt Nam Cộng hòa sử dụng
Tân Son Nhứt năm 1962
Douglas DC 8B vận chuyển khách VIP của phi
đoàn 314 không quân Việt Nam
Cuối
năm 1951, Không quân Pháp thành lập Phi đoàn đặc nhiệm số 3 của Không quân Việt
Nam Cộng hòa tại sân bay Tân Sơn Nhất được trang bị với máy bay liên lạc Morane
500 Criquet.
Năm
1952, một sân bay trực thăng đã được thành lập tại căn cứ để sử dụng cho các
máy bay trực thăng y tế của Không quân Pháp.
Năm 1953, Tân Sơn Nhứt bắt đầu được sử dụng
làm căn cứ không quân cho Không quân Việt Nam Cộng hòa non trẻ, và năm 1956, bộ
chỉ huy được chuyển từ trung tâm Sài Gòn đến Tân Sơn Nhứt. Nhưng ngay cả trước
thời điểm đó, máy bay quân sự của Pháp và Việt Nam đã có mặt tại Tân Sơn Nhứt.
Vào
ngày 1 tháng 7 năm 1955, Phi đoàn vận tải số 1 của Không quân Việt Nam Cộng hòa
được thành lập và trang bị máy bay C-47 Skytrainswas. Không quân Việt Nam Cộng
hòa cũng có một phi đoàn đặc nhiệm tại căn cứ được trang bị 3 máy bay C-47, 3
máy bay C-45 và 1 máy bay L-26. Phi đoàn vận tải số 1 được đổi tên thành Phi đoàn vận tải hàng không 413 vào tháng 1 năm 1963.
Vào
tháng 6 năm 1956, Phi đoàn Vận tải 2 trang bị máy bay C-47 được thành lập tại
căn cứ và Không quân VNCH cũng thành lập bộ chỉ huy tại đây. Về sau đổi tên
thành Phi đoàn Vận tải Hàng không số 415 vào tháng 1 năm 1963.
Vào
tháng 11 năm 1956, theo thỏa thuận với chính phủ Nam Việt Nam, USAF đảm nhận một
số vai trò huấn luyện và hành chính của Không quân VNCH. Việc bàn giao đầy đủ
trách nhiệm đào tạo diễn ra vào ngày 1 tháng 6 năm 1957 khi hợp đồng đào tạo của
Pháp hết hạn.
Vào
ngày 1 tháng 6 năm 1957, Phi đoàn Trực thăng số 1 của Không quân VNCH được
thành lập tại căn cứ không có thiết bị. Phi đoàn hoạt động với đơn vị Không quân Pháp
phục vụ Ủy ban Kiểm soát Quốc tế và vào tháng 4 năm 1958 với sự ra đi của Pháp,
nó đã kế thừa 10 máy bay trực thăng H-19.
Vào
tháng 10 năm 1959, Phi đoàn Liên lạc thứ 2 được trang bị máy bay L-19 Bird
Dogsmond đến căn cứ từ Nha Trang.
Vào
giữa tháng 12 năm 1961, không quân Mỹ đã bắt đầu chuyển giao 30 máy bay T-28
Trojans cho Không quân VNCH tại Tân Sơn Nhứt.
Vào
tháng 12 năm 1962, phi đội trực thăng 293 bắt đầu hoạt động tại căn cứ, và chấm
dứt hoạt động vào tháng 8 năm 1964.
Cuối
năm 1962, Không quân VNCH thành lập Phi đoàn Trinh sát hỗn hợp 716 ban đầu được
trang bị 2 máy bay trinh sát chụp ảnh C-45.
Vào
tháng 1 năm 1963, USAF đã mở một cơ sở huấn luyện phi công trực thăng H-19 tại
căn cứ và đến tháng 6, các phi công trực thăng đầu tiên của Không quân VNCH đã
tốt nghiệp.
Vào
tháng 1 năm 1963, Phi đoàn Trực thăng 211 được trang bị trực thăng UH-34 và
thay thế Phi đoàn Trực thăng số 1.
Vào
tháng 12 năm 1963, Phi đoàn Trinh sát hỗn hợp 716 đã hoạt động tại căn cứ, được
trang bị máy bay C-47 và T-28. Phi đoàn chấm dứt hoạt động vào tháng 6 năm 1964
và nhiệm vụ của phi đoàn này do Sư đoàn 2 Không quân đảm nhận, trong khi các
phi công phi đoàn này đã thành lập Phi đoàn tiêm kích 520 tại căn cứ không quân
Biên Hòa.
Vào
tháng 1 năm 1964, tất cả các đơn vị Không quân VNCH tại căn cứ đều nằm dưới sự
kiểm soát của không đoàn chiến thuật thứ 33 mới thành lập.
Đến
giữa năm, Không quân VNCH đã tăng lên mười ba phi đội; bốn máy bay chiến đấu, bốn
máy bay quan sát, ba máy bay trực thăng và hai máy bay vận tải C-47. Q Không
quân VNCH theo sát hoạt động thực tiễn của Không quân Hoa Kỳ, tổ chức các phi đội
thành không đoàn, với mỗi không đoàn nằm ở bốn khu vực chiến thuật là Căn cứ
Không quân Cần Thơ, Tân Sơn Nhứt AB, Căn cứ Không quân ở Đà Nẵng.
Vào
tháng 5 năm 1965, máy bay Douglas A-1 Skyraider trang bị Phi đoàn tiêm kích 522
được đưa vào tại căn cứ.
Trung tâm chỉ huy và kiểm soát
Là
bộ chỉ huy của Không quân Việt Nam, Tân Sơn Nhứt chủ yếu là một căn cứ chỉ huy,
với hầu hết các đơn vị hoạt động sử dụng căn cứ không quân Biên Hòa gần đó.
Tại
Tân Sơn Nhứt, hệ thống chỉ huy và kiểm soát của Không quân Việt Nam đã được
phát triển qua nhiều năm với sự hỗ trợ của USAF. Hệ thống xử lý luồng máy bay từ
cất cánh đến khu vực mục tiêu và quay trở lại căn cứ mà nó được phóng từ cất
cánh. Đây được gọi là Hệ thống kiểm soát không quân chiến thuật (TACS), và nó đảm
bảo kiểm soát tích cực tất cả các khu vực nơi các hoạt động chiến đấu quan trọng
được thực hiện. Nếu không có hệ thống này, Không quân Việt Nam sẽ không thể triển
khai lực lượng của mình một cách hiệu quả khi cần thiết.
TACS
rất gần với trụ sở của lực lượng Không quân Việt Nam và USAF ở miền Nam Việt
Nam, và các chỉ huy của cả hai Lực lượng Không quân đã sử dụng các cơ sở này. Đơn
vị của TACS là Trung tâm hỗ trợ không quân trực tiếp (DASC) được chỉ định cho từng
khu vực quân đoàn (I DASC - Đà Nẵng AB, DASC Alpha - Căn cứ không quân Nha
Trang, II DASC - Pleiku AB, III DASC - Biên Hòa AB, và IV - Cần Thơ AB). Các
DASC chịu trách nhiệm triển khai các máy bay nằm trong khu vực của họ để hỗ trợ
các hoạt động trên mặt đất.
Hoạt
động dưới sụ điều hành của DASC là nhiều nhóm kiểm soát không quân chiến thuật
(TACPs), được điều khiển bởi một hoặc nhiều nhân viên của Không quân Việt Nam /
USAF, phối hợp cùng với lực lượng mặt đất của Quân đội Nam Việt Nam (ARVN). Một
mạng lưới thông tin liên lạc đã liên kết ba cấp chỉ huy và kiểm soát này, cho
phép TACS kiểm soát tổng thể tình hình không quân miền Nam mọi lúc.
Thông
tin bổ sung được cung cấp bởi một mạng lưới radar bao trùm toàn bộ miền Nam Việt
Nam và xa hơn nữa, giám sát tất cả các máy bay tấn công.
Một
chức năng khác của căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt là một trung tâm tuyển dụng của
Không quân Việt Nam.
Sử dụng căn cứ trong cuộc đảo chánh
Căn
cứ này nằm cạnh trụ sở của Bộ Tổng tham mưu miền Nam Việt Nam, và là một địa điểm
quan trọng trong nhiều cuộc đảo chánh quân sự, đặc biệt là cuộc đảo chánh năm
1963 đã phế truất Tổng thống đầu tiên của quốc gia là Ngô Đình Diệm. Những kẻ
âm mưu đã mời các sĩ quan trung thành đến một cuộc họp ăn trưa thường lệ tại
JGS và bắt họ vào chiều ngày 1 tháng 11 năm 1963. Đáng chú ý nhất là Đại tá Lê
Quang Tung, chỉ huy trung thành của Lực lượng đặc biệt QLVNCH, thực sự là một đội
quân riêng của Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu và phụ tá của ông, Lê Quảng Trịệu. Sau đó, Đại
úy Nguyễn Văn Nhung, vệ sĩ của thủ lĩnh đảo chánh, Tướng Dương Văn Minh, bắn anh
em họ Ngô ở rìa căn cứ.
Vào
ngày 14 tháng 4 năm 1966, một cuộc tấn công bằng súng cối của Việt Cộng vào sân bay đã phá hủy 2 máy bay của Không quân Việt Nam và giết chết 7 quân nhân của
USAF và 2 quân nhân Không quân Việt Nam.
Sân bay đã bị Việt Cộng tấn công trong một cuộc tấn công bằng súng cối và súng cối
vào sáng ngày 4 tháng 12 năm 1966. Cuộc tấn công bị đẩy lùi và 3 quân nhân Mỹ
và 3 quân nhân quân đội VNCH bị giết và 28 VC bị giết và 4 bị bắt.
Các nữ nhân viên của
quân đội VNCH trao đổi với cố vấn đại úy Maty A. Mash
tháng 6 năm 1968.
(Còn Tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét