Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2017


ĐƯỜNG TÂY NINH
ĐƯỜNG ROUSSEAU
ĐƯỜNG Dr. ANGIER
ĐƯỜNG NGUYỄN BĨNH KHIÊM


Con đường này khi xưa là một trong những con đường có nhiều cây xanh nhất của Sài Gòn và cũng là một trong những con đường xưa nhất. Nó xưa vì lý do ở cái tên của nó khi mới được đặt là đường số 2, khi chưa xuất hiện đường Norodom giao với nó và vào thời mà thảo cầm viên chỉ có diện tích phần phân nửa và có con đường Taberd đi xuyên qua.







Trong bản đồ năm 1859 một năm sau khi Pháp chiếm Sài Gòn



đã thấy xuất hiện con đường này rồi.


Đường số 2 trong bản dồ sài Gòn năm 1867

Ngày 2 tháng 6 năm 1871 Pháp đổi tên lại là đường Tây Ninh và tên này tồn tại 26 năm sau đó.


Đường Tây Ninh trong bản đồ năm 1878

                 Năm 1897 đổi là đường Rousseau.


Đường Rousseau trong bản đồ năm 1898

Ngày 21-4-1936, cắt đoạn giáp với xưởng Ba Son tới giao lộ với đường Chasseloup Laubat và đặt tên đường Docteur Angier.



Đọan đường Docteur Angier trong bản đồ thập niên 1940


Ngày 23-1-1943 Pháp bỏ tên đường Rousseau và nhập lại lấy tên là Docteur Angier.



Ngày 22-3-1955, chính phủ quốc gia Việt Nam đổi là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm và tên đường tồn tại cho tới nay.
Đường Nguyễn Bĩnh Khiêm dài khoảng 1200 mét bắt đầu từ hông xưởng Ba Son kéo dài tới chân cầu Phan Thanh Giản (Điện Biên Phủ). Là con đường tương đối yên tĩnh nhất là đoạn từ xưởng Ba Son đến khu vực hai trường Trưng Vương và Võ Trường Toản vì rất ít xe lưu thông (trước năm 1975).


Trở lại việc Pháp quyết định đặt tên đường là Docteur Angier để nhớ công lao của vị bác sĩ này đã thành lập bệnh viện mang tên ông vào năm 1908 tại khu vực đâu lưng với tu viện Saint Paul và kế cận trường Institution municipale de filles à Saigon sau là trường nữ trung học Trưng Vương và Võ Trường Toản




Vị trí vòng tròn màu tím là bệnh viện Docteur Angier


Bệnh viện Docteur Angier

Đến năm 1939 bệnh viện ngưng hoạt động chuyển qua bệnh viện Saint Paul mới thành lập. Khu đất này sau đó được chuyển giao cho trường Institution municipale de filles. Như vậy suy ra địa chỉ của bệnh viện là số 1.
Còn địa chỉ số 2 nằm ở đâu, điều này theo suy luận của bạn đọc cũng biết là nó nằm bên thảo cầm viên. Thật vậy bảo tàng Blanchard de la Brosse trong thảo cầm viên thời đó mang địa chỉ như trên sau khi dời từ vị trí đầu tiên của nó nằm tại cuối đường Docteur Angier về sau này chổ này là trung tâm lưu trữ hồ sơ.
Năm 1955 trường Sư Phạm Nam Việt di chuyễn về đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, gần Thảo Cầm Viên, sau nầy là trường Trung học Võ Trường Toản.
Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, và Nha Khảo Thí đều tọa lạc giữa trường Trung học Võ Trường Toản và trường nữ trung học Trưng Vương


Trường nữ trung học Trưng Vương 



 Trường namTrung học Võ Trường Toản


Nha Khảo Thí


 Thảo cầm viên Sài Gòn và viện bảo tàng ở giao lộ Docteur Angier - Norodom (Nguyễn Bĩnh Khiêm - Thống Nhất)




Góc trường Cao đẳng quốc phòng





Đoạn từ đầu đường đến giao lộ với Norodom có ba giao lộ với các đường Espagne (Lê Thánh Tôn), Palanca (Nguyễn Trung Ngạn) và Taberd - Lucien Mossard (Nguyễn Du).
Qua giao lộ với Norodom, ta thấy về bên phải khi thảo cầm viên chưa được mở rộng là khu Magasins généraux. Nơi này có nhà và thánh đường của Cha Cả (Pigneau de Béhaine) phía sau viện bảo tàng.
Bên tay trái là khu đất của thành 11ème (Cộng Hòa). Về sau được cắt ra thành lập trường Lamartine với phòng chiếu phim trực thuộc Centre culturelle và hồ tắm Nguyễn Bĩnh Khiêm. Xin nói thêm trường Lamartine bị phá hủy trong cuộc đảo chánh 1/11/1063 vì nó nằm sát thành Cộng Hòa. Ở góc Nguyễn Bĩnh Khiêm - Hồng Thập Tự thời Chính phủ Ngô Đình Diệm là khu xưởng may của cư xá Thành Tín.
Tại ngả tư này phía trái bên kia khi xưa là champ de manoeuvre có thể đây là trường bắn của thành 11ème về sau thời VNCH ở góc của khu đất này là phòng bán tem (những ai có chơi tem đều biết nơi này). Về phía phải là khu Pyrotechnic tức là kho đạn, nơi đây ngày 8 tháng 4 năm 1946, Việt Minh đã đốt phá và cũng là nơi sản sanh ra nhân vật Lê Văn Tám. Về sau thời VNCH nó là một phần của nhà in offest của cục tâm lý chiến với giàn máy in tối tân nhất thời đó. 




Ngả tư Nguyễn Bĩnh Khiêm - Hồng Thập Tự thập niên 1960


Ngả tư Nguyễn Bĩnh Khiêm - Hồng Thập Tự thập niên 1970


Ngả tư Nguyễn Bĩnh Khiêm - Hồng Thập Tự năm 1990

Qua ngả tư này là chúng ta tới giao lộ với đường Richaud (Phan Đình Phùng-Nguyễn Đình Chiểu), ở góc ngả tư này chúng ta thấy đài Phát thanh Sài Gòn mà tiền thân của nó là Radio Saigon.


Hình Radio Saigon bị hư hại trong vũ đốt phá 
kho đạn Pyrotechnic ngày 8/4/1946

Qua ngả tư này chúng ta thấy hai bên đường là các biệt thư của người Pháp và khu dân cư người Việt kéo dài cho tới giao lộ với đường Mois - Marcel Richard - Sohier (Tự Đức - Nguyễn Văn Thủ). Tại đây chúng ta thấy trung tâm lưu trữ hồ sơ thời VNCH và tại góc ngả tư có đình Tân An.


Đình Tân An số 26 Nguyễn Bĩnh Khiêm

Qua khỏi đây là khu dân cư lao động kéo dài tới giao lộ với đường Legrand de la Liraye (Phan Thanh Giản - Điện Biên Phủ). Ở dốc cầu Phan Thanh Giản có một tòa nhà xưa là bộ cải tiến nông thôn của VNCH.




Tòa nhà này khi xưa gọi là Office Indochinois du riz



Giao lộ Nguyễn Bĩnh Khiêm - Phan Thanh Giản




Tòa nhà bên phải trước 1975 là trụ sở Bộ Cải Tiến Nông Thôn VNCH

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016


ĐƯỜNG DE LA PÉPINIÈRE
ĐƯỜNG MISS CAVELL 
ĐƯỜNG HUYỀN TRÂN CÔNG CHÚA


Đây là con đường nhỏ, thầm lặng với tổng chiều dài khoảng 450 mét; bắt đầu từ ngả ba Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai) và chấm dứt ờ giao lộ với đường Nguyễn Du. Nói nó thầm lặng thì cũng có nhiều lý do mà tôi sẽ đề cập sau. Thuở xa xưa khi chưa xuất hiện dinh toàn quyền (Dinh Độc Lập – Thống Nhất) và vườn Maurice Long (Tao Đàn) là vùng đất cao bao gồm cả trường Chasseloup Laubat (Lê Quý Đôn) là mảnh đất của tả quân Lê Văn Duyệt còn gọi là vườn ông Thượng. Về sau khi người Pháp, sau đánh chiếm Nam kỳ, đã quyết định xây dựng tại đây một dinh làm việc cho toàn quyền. Năm 1868 công trình khởi công và đến năm 1869 thì người Pháp mới cắt khu đất trên ra làm 2, phần phía sau dinh (Khu vực vườn Tao Đàn) được dùng làm khu vườn cho dinh trong đó có khu ươm cây. Đến năm 1897 giữa 2 phần, người Pháp lập một con đường nhỏ mang tên là La Pépinière theo tiếng Việt là vườn ươm cây. Từ đó khu vườn này không còn trực thuộc dinh toàn quyền nữa mà trở thành một khu vườn thuộc thành phố Sài Gòn và nó mang tên về sau là Maurice Long. Khoảng sau năm 1915 con đường này được đổi tên là Miss Cavell theo tên một nữ y tá người Anh hy sinh ngày 12 tháng 10 năm 1915 vì đã tổ chức đào thoát cho hàng trăm binh sĩ đồng minh của Bỉ trong trận đệ nhất thế chiến.
Năm 1955, chính phủ quốc gia Việt Nam đổi tên lại là Huyền Trân Công Chúa.


Bản đồ năm 1878 cho thấy vẫn chưa có con đường cắt ngang 2 khu vực


Bản đồ năm 1896 con đường La Pépinière đã hình thành nhưng khu vườn chưa mang tên Maurice Long.



Những bản đồ từ năm 1920 về sau mới thấy tên đường Miss Cavell


Cô Edith Cavell

Con đường này đặc biệt là không có nhà dân sự vì một bên đường chiếm hết chiều dài là dinh toàn quyền, một bên là thuộc về cercle sportif saigonnais và vườn Maurice Long. Ở khoảng giữa bên khu vườn có một cổng vào sát sân vận động. Duy nhất chỉ có một căn nhà số 2 mà về sau thuộc quyền quản lý của sở điện lực Sài Gòn.  
Về phía giao lộ với đường Nguyễn Du vào thời VNCH có 2 địa điểm đáng nhớ là về phía dinh Độc Lập là căn nhà của đội phòng vệ dinh và bên kia là bộ Phát triễn sắc tộc xưa là tòa nhà  Hôtel de la Loge Maçonnique Le Réveil de l’orient .


Sau năm 1968 vì lý do an ninh, con đường này bị " giam lại" không cho xe lưu thông.
Năm 1975 một quả rốc kết đã trượt qua nóc dinh rơi xuống khu gia binh bên đường  Huyền Trân Công Chúa trong vụ đánh bom dinh Độc Lập,
Sau 1975 con đường này có một thời gian bị "ô danh" vì nạn mãi dâm đứng đường.


Đường Huyền Trân Công Chúa nhìn từ 
đường Hồng Thập Tự (Nguyễn Thị Minh Khai) 


Đường Huyền Trân Công Chúa nhìn từ
đường Nguyễn Du



Đường Huyền Trân Công Chúa ngày nay


Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                          1031. Nhà hàng 
Kim Sơn đại lộ Lê Lợi xưa và nay.


                          1032. Giao lộ T
rần Hưng Đạo-Huỳnh Mẫn Đạt xưa và nay.

 
                          1033. Góc Công Lý và Lê Lợi xưa và nay.


                          1034. Tòa nhà 
US Naval Support Activity Saigon (NSAS) số 218 đường Phan Đình Phùng xưa và nay.


                          1035. Đầu Tự Do nhìn về nhà thờ Đức Bà 
xưa và nay.


                          1036. Giao lộ 
Công Lý và Lê Lợi xưa và nay.


                          1037. Tòa nhà số 171 tại giao lộ 
Hai Bà Trưng - Phan Đình Phùng nay không còn.

 
                          1038. Tiệm bán xe máy Saigon motors ờ giao lộ 
Trần Hưng Đạo-Huỳnh Quang Tiên xưa và nay.


                          1039. Cổng trường 
Trưng Vương xưa và nay.


                          1040. Giao lộ 
Nguyễn Huệ - Huỳnh Thúc Kháng xưa và nay.


Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng (2): Xe kéo


                                                                                     Nguyễn Ngọc Chính


Tìm hiểu về lịch sử của chiếc xe kéo, người ta cho rằng loại xe này đã ra đời vào đầu kỷ nguyên Minh Trị tại Nhật Bản, vào khoảng năm 1869. Hồi đó, những gia đình khá giả có thể tậu một chiếc xe do người làm kéo đi những lúc cần di chuyển, thay vì phải đi bộ.
Theo Wikipedia, xe kéo - tiếng Anh là Rickshaw, tiếng Pháp là Pousse-Pousse - bắt nguồn từ tiếng Nhật “Jinrikisha” trong đó ghép bởi “jin” (con người, nhân), “riki” (sức lực) và “sha” (xe). Như vậy, “Jinrikisha” là loại xe chạy bằng sức kéo của con người. 


Xe kéo xưa trên bưu ảnh của Nhật Bản

Bắt đầu từ năm 1870, chính quyền thành phố Tokyo cấp giấy phép sản xuất và bán xe kéo cho 3 người được coi là nhà sáng tạo phương tiện vận chuyển “tân kỳ” này: Izumi Yosuke, Takayama Kosuke và Suzuki Tokujiro. Để được phép hoạt động tại Tokyo, xe kéo phải được đóng dấu cho phép của 3 nhà phát minh này.


Xe kéo tại Nhật năm 1897

Đến năm 1872 có khoảng 40.000 xe kéo hoạt động tại các thành phố lớn ở Nhật và  đây cũng là phương tiện giao thông chính trong cả nước. Vào thời đó, sức người rẻ hơn nhiều so với sức ngựa nên ngựa chỉ được dùng cho các hoạt động mang tính cách quân sự. Nguồn nhân lực cho xe kéo là những nông dân từ thôn quê ra thành thị kiếm sống, tính ra mỗi ngày họ phải chạy từ 30 đến 40km với tốc độ trung bình 8km một giờ.   


Phu xe kéo tại Nhật

Xe kéo lần lượt xuất hiện tại các thành phố châu Á như Trung Hoa (1873), Singapore (1880), Việt Nam (1883) và vào cuối thế kỷ thứ 19 tại Ấn Độ, Nepal, Bangladesh, Indonesia, Hồng Kông, Triều Tiên… Nói chung, xe kéo có mặt khắp lục địa Á Châu là nơi có dân số đông nhất thế giới và cũng là nơi có trình độ phát triển kém hơn châu Âu, châu Mỹ. 


Xe kéo tại Ấn Độ

Năm 1883, chiếc xe kéo, hay còn gọi là xe tay tại miền Bắc, xuất hiện lần đầu tiên tại Hà Nội do Thống sứ người Pháp, Jean Thomas Raoul Bonnal, cho đem từ bên Nhật qua. Xe kéo Hà Nội xuất hiện một năm sau chiếc xe hơi đầu tiên tại Âu Châu và một năm trước xe tramway, một loại xe do ngựa kéo. Gần 15 năm sau, Sài Gòn mới biết tới loại xe này.


Hình ảnh xe kéo là một trong những sắc thái đặc thù của Đông Dương được họa sĩ Adrien Marie vẽ trong một bức tranh cổ động cuộc đấu xảo năm 1889 tại Pháp

Lịch sử phát triển xe kéo tại Việt Nam bắt đầu từ năm 1884 khi một nhà thầu người Pháp cho sản xuất khoảng 50 chiếc xe cung cấp cho cả miền Bắc, khi đó còn gọi là Tonkin. Từ đó, chiếc xe kéo dần dần trở nên quen thuộc tại Hà Nội và chỉ dành cho những người có chức, có tiền. sử dụng làm phương tiện di chuyển trong khi đi bộ vẫn là phương tiện chính của đại đa số dân chúng.

Ngồi trên xe kéo nói lên cho sự giàu có và uy quyền của người Pháp và các gia đình quyền quý người bản xứ nhưng trước đó các tiểu thư khuê các Hà Thành thường ít khi dùng đến xe kéo vì sợ hiểu lầm là… Me Tây. Thời đó, phụ nữ người bản xứ khi lấy người Pháp tại thuộc địa thường bị mỉa mai là “Me Tây” cũng như sau này ở Sài Gòn có một số người bị gán cho “danh hiệu”… “Me Mỹ” khi họ kết hôn với người Mỹ.


Xe kéo trước khách sạn Metropole (đường Henri Rivière), Hà Nội

Một hãng cho thuê xe kéo sau đó được thành lập tại Hà Nội. Những chiếc xe kéo đầu tiên có bánh xe bằng sắt, chạy không êm nhưng hành khách phải giữ chỗ trước một ngày nếu muốn được thuê. Dần dà, bánh xe kéo được bọc cao su nên khi chạy êm hơn và loại xe bánh sắt chuyển ra các vùng ngoại ô.

Cuộc cách mạng “bánh xe” đã phân chia thành hai loại khách sử dụng: loại bánh cao su được dành cho giới quan chức thuộc địa và gia đình trong khi loại bánh sắt dành cho giới trung lưu người bản xứ.


Xe kéo Hà Nội (1900)

Ngay cả những xe kéo với bánh cao su cũng chia ra làm hai loại, loại bình thường và loại của hãng OMIC. Loại nầy có chổ ngồi bằng nhôm trắng bóng và có nệm lò xo cũng được bọc vải trắng, dĩ nhiên đi xe loại nầy thì mắc tiền hơn là đi xe loại thường.

Hình ảnh về các quan lại, binh lính, chức dịch… thời đại phong kiến dưới triều đại phong kiến qua góc nhìn của các nhiếp ảnh gia người Pháp khi họ đến Đông Dương trong đó có Việt Nam cho thấy một cái nhìn đầy đủ về một thời kỳ đã kéo dài ở Việt Nam dưới thời Pháp thuộc.


Hãng xe kéo Hà Nội

Chiếc xe kéo được coi là biểu tượng của sự phân biệt giai cấp giữa người lao động phải dùng sức mình để kiếm miếng cơm manh áo và hành khách ngồi phía sau là giới quyền quý, giàu sang. Truyện ngắn Người ngựa – ngựa người của Nguyễn Công Hoan đã nói lên cuộc đời cơ cực của người kéo xe, còn được gọi bằng “cu-li”, giữa khung cảnh đêm 30 Tết.

Truyện kể anh phu xe đói khách trong đêm giao thừa gặp phải một cô khách tân thời tưởng lắm tiền ai ngờ lại quá keo kiệt, chỉ trả hai hào cho một giờ bao xe. Anh kéo xe giờ cho nên cũng chỉ chạy tà tà, theo cách Nguyễn Công Hoan mô tả: “đít nhổm mạnh, mà bước ngắn”.

Truyện chỉ có 2 nhân vật và người đọc thoạt đầu cứ tưởng như thuộc hai giai cấp khác nhau nhưng cuối cùng cũng nhận ra họ chỉ là “người ngựa” kéo phía sau là “ngựa người”, một “bà” khách lại là một cô gái “ăn sương” thuê xe kéo để đi kiếm khách trong đêm giao thừa. Đã không có tiền trả anh xe kéo, “bà” khách lại còn mượn anh hai hào để mua gói thuốc lá, bao diêm và cả hạt dưa để cắn!

Anh phu xe thì hí hửng khi giờ khắc giao thừa đến gần: “Mười lăm phút nữa, mình sẽ có sáu hào. Sáu hào với hai hào là tám. Thế nào ta cũng nài thêm bà ấy mở hàng cho một hào nữa là chín. Chín hào! Mở hàng ngay từ lúc năm mới vừa đến. Thật là may! Mới năm mới đã phát tài! Thôi, sang năm tất là làm ăn bằng mười bằng trăm năm nay”.


Xe kéo Hà Nội

Nguyễn Công Hoan dẫn người đọc đến một đoạn thật hấp dẫn sau khi anh phu xe đã kéo “bà” khách đi khắp phố phường Hà Nội gần 2 giờ đồng hồ trong đêm giao thừa:

- Này, anh đỗ xuống tôi bảo. Tôi nói thực với anh nhé. Bây giờ đã về sáng rồi, chắc anh kéo tôi mãi cũng đến thế mà thôi. Tôi thì thực không có tiền giả anh đâu. Tôi gán cho anh khăn, áo, đồng hồ mà anh không lấy, thì tôi chả biết nghĩ thế nào cho phải cả. Thôi thì anh kéo tôi ra chỗ kín, vắng, anh muốn bắt tôi gì tôi xin chịu.
- Tôi bắt gì cô mà tôi bắt!
Cô ả nắm lấy tay, vỗ vào vai anh xe, nhăn nhở cười:
- Anh này thực thà quá, nghĩa là chỉ có anh với tôi thôi, thì người tôi đây, anh muốn làm gì tôi cũng bằng lòng.
- Ối thôi! Tôi lạy cô. Nhỡ cô đổ bệnh cho tôi thì tôi bỏ mẹ tôi.
- Không sợ, tôi mới khám bệnh hôm qua.
- Thôi, tôi chắp tay tôi van cô, cô có thương tôi thì mời cô xuống xe cho tôi về, và xin cô tiền xe!
- Thế thì anh cứ kéo tôi về nhà tôi, xem có đồ đạc gì đáng giá, thì anh cứ việc lấy.













Kịch Ngựa người người ngựa

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...