Thứ Tư, 22 tháng 1, 2020



NAM KỲ THUỘC PHÁP: CUỘC SỐNG Ở SÀI GÒN
GHI CHÉP VỀ CUỘC HÀNH TRÌNH/ CỦA M. A. PETITON

(Tiếp Theo)



NAM KỲ THUỘC PHÁP

CUỘC DU KHẢO TÂY NINH
 

CHÙA Ở NÚI DINH BÀ

                                                                                        7 THÁNG 7 NĂM 1869




Tôi nhận được sự hiếu khác của tăng viện hay của vị trụ trì của núi Dinh Bà, được biết đến nhiều hơn dưới cái tên núi Tây Ninh.
Tăng viện này nằm ở sườn phía nam của núi Đinh-Ba, khoảng một phần tư chiều cao từ chân núi, tức là 200 và một vài mét.
Đỉnh núi cao 950 mét so với mực nước biển.
Khởi hành từ Tây-Ninh, chúng tôi đi xe bò, đến nơi sau 3 hoặc 4 giờ theo hướng Đông Bắc, tại một địa điểm nằm dưới chân núi cách Tây-Ninh khoảng 16 km; ở đây có 3 hoặc 4 cái nhà, từ nơi này, một con đường nhỏ, ở giữa những tảng đá, trồi lên nhanh chóng xuyên qua khu rừng để đến tăng viện. Tăng viện này là một ccái nhà đơn giản nằm bên cạnh một hang động không sâu, được bao quanh bởi một khối đá hoa cương khổng lồ nhìn ra một khe núi có độ sâu trung bình.
Việc mô tả đơn giản của tăng viện và chùa này đủ để đưa ra một ý tưởng về các tăng viện và chùa bình thường mà người An Nam có ở Nam Kỳ thuộc Pháp.
Cái nhà của tăng viện là một cái nhà bình thường. Nó gồm một phòng được chia ra làm nhiều phòng phụ.
Mặt bằng chung của tòa nhà là một hình chữ nhật, ở giữa mỗi cạnh nhỏ có một cánh cửa; trong suốt thời gian chúng tôi ở lại, hai cửa này vẫn luôn mở, Điều này, cùng với sự rút ngắn của các bức tường nguyên thủy của ngôi nhà, có nghĩa là không có lý do gì để phàn nàn, như ở phần lớn ngôi nhà ở Nam Kỳ, rằng không có đủ không khí.
Tăng viện nằm trên một thềm nhỏ nằm ở sườn núi. Ở bên phải của cửa vào là một không gian vuông vức được hình thành bởi một vách ngăn được làm bằng lá buông, một loại cây cũng được sử dụng để làm buồm (như chúng ta đã nói). Bên trong không gian vuông vức này là một khung hình chữ nhật với vách là những thân tre chẻ đôi, nối với mây, tất cả nằm cách mặt đất ba mươi centimet. Nơi này là nơi ở của mẹ nhà sư trụ trì. Tiếp tục ở bên phải, có hai cây cột gỗ cứng dủng để nâng cho mái nhà. Hai cây cột này, cách nhau khoảng ba mét, bao gồm giữa chúng là hai tấm màn phủ lối vào một phòng đọc kinh. Những rèm cửa này bao gồm một dải màu xanh thẳng đứng ở bên cạnh các cột và màu đỏ về phía trung tâm; ở đầu mỗi tấm rèm được treo thẳng đứng một vật trang trí bằng lụa có hình mũi nhọn với ba màu: trắng, đỏ, xanh.
Ở giữa xà ngang nối hai cây cột là một mảnh giấy đỏ hình chữ nhật được chia thành năm ô; trong mỗi ô này là hình một người đàn ông nhỏ bé hoặc một người phụ nữ phúc hậu nổi bật trên nền vàng, xanh lá cây sặc sở. Toàn bộ được đặt trên một cái tấm bảng hình chữ nhựt treo trên mái. Tấm bảng đóng khung đen này có bốn chữ lớn của Tàu nổi bật màu đen trên nền đỏ của bàn.
Ttoàn bộ phía trước được treo ba chiếc đèn lồng lớn của Tàu có hình cầu mà chung quanh có những hình kỳ quái của người Tàu quen thuộc với chúng ta, Những chiếc đèn lồng này thường chỉ phục vụ một thứ; nó sẽ được đốt ngay khi bạn thắp sáng ngọn nến nhỏ bên trong.
Như tôi đã nói, hai cột lối vào có hai tấm gổ đặt thẳng đứng. được sơn màu đỏ và khắc một tá ký tự Tàu và được phủ một lớp sơn đen và ngoài ra mỗi cột đều mang một dải giấy màu vàng, trên đó cũng có một tá chữ Tàu. Đó là những gì thấy được trước phòng đọc kinh phật.
Hãy đẩy mạnh, trước khi mở rèm cửa.
Buồng thứ ba có một chiếc bàn lớn có thể được sử dụng làm giường và một buồng nhỏ được hình thành bởi một vách ngăn bằng là buông.
Buồng này là buồng dành cho vị sư trụ trì trong đó có chiếc giường sang trọng giống như chiếc giường mà tôi vừa nói. Phía trên giường có hai chùm lá tranh. Trong những chùm này người ta gắn vào sáu mươi cây đèn cầy; những đèn cầy mà linh hồn của nó là những miếng tre nhọn được quần chung quanh một cái tim bằng gòn. Người ta nhúng chúng vào trong dầu dừa hay sáp. Những đèn cây dùng thắp sáng cho buổi cúng phật.
Bây giờ chúng ta đi đến phía trước cửa ra vào dẫn đến chồ miếng đất trống nhô ra một vực sâu khoảng chục thước. Nếu đi qua cửa ra vào, tôi đến phía bên trái của cái nhà. Trước hết tôi gặp một cái giường, một cái bàn nhỏ dài với hai tấm ván ngôi mỗi bên, tất cả được đặt trên các chân đế, một cửa sổ sát đất ở bên trái, Cuối cùng là là một cái giường.
Tôi chú ý đến cái cửa sổ sát đất. Nó đóng lại với năm thanh gỗ.
Phần dưới và trên của khung được khoét lỗ mà trên đó cò gắn một thanh để dùng vào việc gì đó. Thanh được gắn vào lỗ ở phần trên sâu hơn lỗ ở phần dưới, để cho sức nặng của thanh gỗ rớt trở lại lổ phía dưới trong khi phần trên của nó vẫn lồng vào lỗ của khung trên.
Tôi nhấn mạnh vào mô tả về cửa sổ sát đất bởi vì tôi thường thấy nó được sử dụng ở Nam Kỳ rất đơn giản và khéo léo.
Đất của Cái nhà được nện rất xấu; Vách gồm bằng các liếp lá dừa được cột bằng mây, tất cả nằm trong khung bằng cây. Bao gồm là sự đan nhau giửa tre và lá buông, gom lại từng phần và từng niếng.
Đối với mái nhà, gồm hai phần tận cùng ở hai đầu bằng hai phần nhỏ và được phủ bằng lá tranh giống như một loại rơm. Các rui và xà được làm từ các loại gỗ các loại có ở núi. Túp lều này tóm lại là một trong những loại lều tự nhiên của Nam Kỳ. Tôi quên nói rằng bạn phải cúi xuống một chút để đi ra, mái nhà kéo dài đến 1 m, 50 trên mặt đất, để đảm bảo bên trong mùa mưa.
Nếu vén bức màn che khuất chánh điện, người ta nhìn thấy trước mắt là một bàn thờ nhỏ. Bàn thờ được tạo thành bởi hai miếng ván nhỏ, miếng đầu tiên được bọc bằng gòn đỏ và xanh, trên có một bình đất nung màu xanh trong đó người ta đốt nhanh cho phật. Đằng sau chiếc bình này là một giá ba chân nhỏ bằng gỗ đỡ một chiếc bàn nhỏ phủ giấy màu vàng có lẽ mang tên và.phẩm trật của phật; dưới chân chiếc bàn nhỏ này là một cái tách bằng sứ loại thường của Tàu được dùng để đựng nước cúng phật.
Ở trên cao hơn là miếng ván dùng làm bàn thờ phật; về phía phải tôi bắt gặp một giá đèn quay bằng gỗ mang một cây đèn cầy sáp nguyên, một cái giá dỡ cho những chiếc tách, một bình bằng đồng có hình một loại sư tử đang há miệng. Đó là phần chánh của bàn thờ, một đồ đựng nhang chứa những thanh nhang đồng. Một cái hộp bằng gỗ trong cò một cái bình hình trụ đựng thuốc lá (bằng sứ Tàu), một hộp hình chữ nhật đựng trầu; cuối cùng giá đèn thứ hai làm thành một dây chuyền với cái thứ nhứt; phía sau giá đỡ bằng gỗ hình trụ có đèn chong được thắp sáng suốt đêm; Đằng sau một chiếc bình sứ thường chứa cát để cắm nhang cho phật. Trên hàng cuối cùng bắt đầu từ bên phải, một hộp gỗ sơn mài đựng những chiếc tách, một cái khay nhỏ chứa bốn cái tách, hai cái khay gỗ vàng thẳng đứng trình bày các chữ cái trên nền vàng tên của vị phật, Cuối cùng là một chuông đồng tiếng trong trẽo để tạo âm sắc, Chiếc chuông này có hình bán cầu, được gõ bằng một miếng gỗ được bao quanh bởi bông gòn, Ở dưới cùng của bàn thờ, bên phải và bên trái là một dải giấy đỏ thẳng đứng với các ký tự Tàu và một loại cờ đuôi nheo mang các ký tự màu đen trên nền trắng. Dưới bàn thờ là một loại dụng cụ bằng gỗ rỗng có hình trái dừa trên đầu có tay cầm; tất cả dường như được làm thành từ một mảnh gỗ và tách ra ở phần dưới của nó. Dụng cụ được sử dụng như cái trống. Đầu trên bàn thờ, trên một chiếc bàn nhỏ là một tấm bảng có tên phật và hai giúa đèn bằng đất nung được sơn màu xanh lá cây.
Tất cả nằm ở phía trước tượng phật đang ngồi.
Vị phật đội một chiếc nón màu xanh phổ với vương miện ở dưới.
Ở phía bên trái một bức tượng người phụ nữ bằng gỗ dát vàng,
Ở bên phải và bên trái là một tấm đồng dùng làm trống và một bán cầu bằng đồng rỗng cũng dùng làm trống. Phía trước bàn thờ này là một bức tượng với kích thước đáng kể hơn của phật, có hai má lớn, ngồi và có những lọn tóc đen.
Cuối cùng, trước mặt tượng, trên một cái bàn, ở thấp hơn, là ba vị phật được đặt thẳng đứng. Tượng ở giữa có ngón tay trỏ bên trái đưa lên, là một loại chỏm màu xanh. Hai tượng còn lại thì khoanh tay, Bên cạnh là bốn bức tượng nhỏ đang quỳ. phía trước, có một chiếc đĩa và chiếc tách đặt trên bàn, bốn chân đèn cầy bằng đồng, một đồ đựng nhang cho phật.
Đi xuống hai bước và chúng tôi đang ở trong nơi thờ tự đơn sơ.
Bàn thờ được làm thành từ một loại thùng hở bên trên, mặt trước của thùng này, bên phải và bên trái, mang một tấm ván được sơn màu đỏ với các ký tự vàng như chúng ta đã thấy nhiều lần rối.
Trên bàn là một cái trống bằng gỗ rỗng thông thường được trang trí thếp vàng (cái tôi đã đề cập là một cái trống bằng đồng hình bán nguyệt nhỏ hơn một chút).
Phần dưới của thùng là năm nhân vật tôn giáo bằng bìa cứng; phần này, như các vật trang trí, các món đồ nhỏ bằng các tấm đồng rất mỏng, có hình mũi nhọn. Những món đồ nhỏ này trong những bàn thờ nhỏ tương tự với các nhân vật trong các hốc của những bàn thờ này.
Ở dưới cùng của thùng và treo tới đất là một tấm màu đỏ với hình trang trí màu vàng.
Cuối cùng, trở lại lối vào của hang động, có một vị phật, là một bức tượng nhỏ cao ba mươi cm, tượng trưng cho một nhân vật đứng với một thanh kiếm, tay phải ấn lên chuôi gươm, bên kia tay trái nắm thắt lưng và cái bụng căng, đem lại cảm giác như một binh sĩ ăn no và gặp khó khăn bởi dây thắt lưng. Ở bên trái của nhân vật dể mến này là một con quỷ bằng gỗ nhỏ màu đen với cánh tay chuyển động, tay cầm lá bùa; tất cả được để trên một hình giống như trái dứa bị cắt.
Ở bên phải của nhân vật này là nhang cúng phật. Cũng ở bên phải của bàn thờ là nhang dự trữ để cúng phật; bên trái là một cái trống da nhỏ bên trên có cái chuông nhỏ.
Tổng chiều dài của chánh điện là khoảng mười mét, khoảng bốn mét chiều rộng.
Ở bên phải và bên trái, phía dười, là một số tượng nhỏ không giá trị và một số giấy cúng phật có hình trang trí nằm trên giá đở bằng đất.

                                                                                      (Còn tiếp)

Thứ Sáu, 17 tháng 1, 2020


NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1641. Đại lộ Trần Hưng Đạo nhìn về khu Nancy xưa và nay.


1642. Ngả tư Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng xưa và nay.


1643. Giao lộ Võ Di Nguy - Chi Lăng xưa và nay.


1644. Đường Chi Lăng Gia Định xưa và nay.


1645. Giao lộ Nguyễn Văn Thinh - Phan Văn Đạt xưa và nay.


1646. Ngả tư  Hồng Thập Tự - Công Lý xưa và nay.


1647. Đại lộ Lê Lợi xưa và nay.


1648. Góc Tổng Đốc Phương - Đồng Khánh xưa  và nay.


1649. Villa đại sứ Anh tại Sài Gòn ngày nào và giờ đây.


1650. Nhà thờ giáo xú Phú Nhuận góc Võ Tánh - Trương Tấn Bữu xưa và ay.


   

Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo, Thanh Nguyen

Thứ Sáu, 10 tháng 1, 2020



NAM KỲ THUỘC PHÁP: CUỘC SỐNG Ở SÀI GÒN
GHI CHÉP VỀ CUỘC HÀNH TRÌNH/ CỦA M. A. PETITON

(Tiếp Theo)




Nam Kỳ thuộc Pháp là một quốc gia có các dòng nước và kênh rạch nằm rải rác, các dòng nước được gọi là kênh, chỉ cần nhìn vào bản đồ để xem có bao nhiêu đường giao thông điểm này đến điểm khác thật dễ dàng sử dụng của các tuyến đường sông có thể điều hướng được, ngay cả đối với các tàu khá lớn, đặc biệt là sông Cam Bốt và các sông Vàm Cỏ ở phía tây và phía đông. Giao thông bằng đường bộ là vô cùng khó khăn hơn. Hơn nữa, các tuyến giao thông đường thủy là lý tưởng cho một quốc gia bị ngập lụt nhiều trong vài tháng trong năm.
Việc lưu thông ở Nam Kỳ, bằng thuyền có hai loài: thứ nhất là thuyền biển tên là Ghe bầu, thứ hai là thuyền nước ngọt có nhiều tên và hình thức khác nhau; chúng thường được gọi là tam bản.


Một số loại ghe xuồng tiêu biểu của Nam Kỳ

Những chiếc ghe này có kích thước khác nhau, từ kích thước của một chiếc xuồng nhỏ, nơi chỉ có một người, cho đến kích cỡ của chiếc ghe có thể chứa khoảng hai mươi người; tất cả đều có hình dạng gần giống nhau. Ngay khi chúng đạt đến một kích thước nhất định, phần giữa của chiếc ghe được bao phủ bởi một loại mái làm từ mành tre trên phủ lớp lá dừa. Phần của mái này là hình bán nguyệt, nó thường bao gồm ba phần, một phần cố định và hai phần di động có thể trượt trên phần cố định.
Hai phần di động được sử dụng để tăng không gian sức chứa, che chở khỏi nắng và mưa, đó là những người bạn đồng hành nguy hiểm cũng như khó chịu đối với du khách ở Nam Kỳ. Ghe tam bản nhỏ nhất chỉ có một mái chèo, mọi hoạt động điều khiển nằm phía sau thuyền. Chiếc ghe này không có bánh lái và người điều khiển phải chèo, đồng thời người chèo thuyền phải tạo sự thúc đẩy bằng cách đi sang bên phải và bên trái bởi một chuyển động ngoáy mái chèo càng nhanh nhạy càng tốt; người chèo thuyền ngồi hoàn toàn ở phía sau thuyền, anh ta đứng trên một cái bục gỗ nhỏ, mặt hướng về phía trước. Mái chèo xoay quanh một cái thùng gỗ lớn được đặt thẳng đứng, buộc bằng dây mây, mỏng hoặc bằng dây dừa. Thỉnh thoảng anh ta xối nước để không cho dây bị đứt.
Đứng ở phía sau ghe, người chèo ngoáy mái chèo để đi về phía trước và giữ thăng bằng.
Người An Nam rất giỏi chèo ghe: đàn ông, phụ nữ, trẻ em, tất cả đều biết chèo ghe tam bản, Những tam bản nhỏ này thường được làm từ một thân cây, được sử dụng nhiều nhất là cây dầu.
Trong những ghe tam bản lớn thường có nhiều mái chèo, bốn ờ phía trước và hai ở phía sau.
Thường thì người cầm lái cũng cầm chèo, anh ta dùng chân để chèo như là cánh tay thứ ba.



Trong chiếc tam bản cở trung bình, thường có bốn phần: Phía sau là bục dành cho người chèo. Trước mặt người chèo, ở phía dười là khoảng trống không mái che, chổ đó thường có một bếp ló bằng đất. Nó được sử dụng để chuẩn bị những bữa ăn ngon của người An Nam nhưng là nỗi kinh hoàng đối với dạ dày người Pháp. Phía bên kia, là một chiếc bình bằng đất nung lớn có hình dạng hình trụ hoặc hình dạng của một lu sa thạch lớn; nó là bể chứa nước cần thiết cho nhu cầu của người đi ghe. Nó được châm đầy lại ở những nơi thích hợp.
Những con kênh Nam kỳ, phần lớn thời gian, nước qua lại đôi khi là nước ngọt hay nước mặn, không may cũng chứa một lượng lớn xác phân hủy của thực vật và động vật làm cho việc sử dụng thêm tồi tệ. Đối với tôi đây là nguyên nhân chính làm chết nhiều người tại thuộc địa bởi bệnh lỵ tàn ác mà nó góp phần tạo nên.
Những cánh bườm của ghe tam bản thường được làm bằng lá, đó là buông. Những cánh bườm này thường để gió lọt qua phần lớn khiến việc điều khiển gặp nhiều khó khăn.
Sau tầng sàn tiên tôi đã đề cập, đến phần thuyền được phủ bởi một mái che, và cuối cùng là phía trước, là nơi gần của như tất cả các tay chèo.
Bộ đồ của người chèo thuyền không thể đơn giản hơn, nói chung là giống nhau đối với tất cả người An Nam: Đó là một loại y phục theo kiểu Moresque lớn với đôi chân ngắn, có tác dụng như chiếc quần đùi cùng với chiếc khăn tay đeo trên trán. Đó là tất cả bộ đồ của người An Nam. Bộ đồ này ban đầu là màu xanh dương hay trắng nhưng nhìn lúc nào cũng thấy dơ.
Một số người đàn có dáng thấp, với mái tóc đen, dài, quấn chặt trên đầu vào chiếc khăn tay, hay để buông trên lưng cho tới gần thắt lưng, có làn da rám nắng, mình đầy những vết sẹo đủ hình dạng, tạo thành một đoàn tùy tùng An Nam.
Doàn tùy tùng có một người ca không ngừng hát lên một giai điệu du dương.
Bài hát hầu như luôn bao gồm một loại nhấn nhá phát ra từ giọng ca đôi khi dừng lại đột ngột. Nó khá đơn điệu, nhưng bài hát này tuy nhiên không thiếu một sự quyến rũ nhất định mà bạn phải biết cách đánh giá. Bên cạnh đó, có được sự im lặng từ đoàn tùy tùng người An Nam rất khó khăn; vì họ cơ bản chất thích nói chuyện.



Dân An Nam, mặc dù rất lười biếng, nhưng có khả năng chịu đựng công việc kéo dài như chèo thuyền. Họ tìm mọi cơ hội có thể để nghỉ ngơi, dưới cái cớ là làm điếu thuốc, hay lấy lá trầu, quét một lớp vôi đỏ và nghiền nát mọi thứ giữa hai hàm răng bằng một miếng cau.
Dân An Nam có một đức tình lớn: Là dể nuôi. Một kg gạo, một ít cá với một ít ớt là đủ cho họ. Tất cả đồ ăn được nêm với một loại gia vị gọi là nước mắm. Đó là loại nước chấm làm từ quá trình lên men của cá.
Dâni Annam đôi khi uống một loại rượu có được nhờ quá trình lên men của gạo; rượu này gọi là Chum chum (?). Nhưng có thể nói, đối với việc thuê mướn dân An Nam thì rất hiếm thấy có việc lạm dụng rượu.
Bên cạnh một số đồ dùng bằng đất nung hoặc đồ sứ rất phổ biến, trên ghe vẫn còn một số lượng dao lớn nhất định mà người Pháp gọi là coupe-coupe và và người An Nam gọi là dao. Những vật dụng này đóng một vai trò lớn trong cuộc sống của người An Nam Thật không may, kể từ khi Pháp chiếm đóng, chúng lại được sử dụng để thực hiện nhiều tội ác,
Chúng ta không được quên cái nón của người An Nam; Bên cạnh đó, nghiên cứu về cái nón rất lý thú, có một số hình dạng; Có hai loại chính mà tôi đã thấy được sử dụng bởi người chèo. Có một cái nón tròn có hình dạng của một nắp súp thấp hơn trên có một nút lớn.
Phần bên trong của cái nón này tương ứng chở cái nút bị rỗng và làm thành chổ thoát hơi phía trên đầu. Cái nón này được làm từ hai tấm lưới tre bao phủ bằng lá tre. Vành nón được làm từ một vòng tre nối với nhau bằng một sợi dây làm từ mây rất mỏng. Bên trong nón được lót 'một tờ giấy nhỏ màu đỏ cam.
Cái nón thứ hai có hình dạng của một cái hình chóp để tắt đèn. Nó được làm bằng lá nước dừa kết nối với mây. Chiếc nón này có lợi thế là có thể làm rất nhanh và dùng hầu hết mọi nơi ở Nam Kỳ. Khi bạn đặt chân lên một chiếc thuyền An Nam, bạn phải luôn cẩn thận, bởi vì các tấm ván sàn thường nằm trên các cạnh không đủ rộng, và do đó, bạn có thể dễ dàng bịu lật và bị thương nặng.



Kể từ thời chính quyền Pháp, ghe phải được gắn đèn lồng gắn vào cột buồm; cùng với một số thứ tự ở phía sau; Người chủ ghe phải mang giấy phép cho biết số lượng người đi theo. Người ta  áp dụng các biện pháp trật tự trong một giới hạn nhất định, để giảm nạn cướp, thường xuyên xảy ra ở các con kênh của Nam Kỳ. Chúng ta có thể nói rằng, vào năm 1869, một người Pháp không thể đi một mình trên một chiếc thuyền An Nam với sự an toàn tuyệt đối. Phải cảnh giác chống lại đoàn tùy tùng và chống lại các cuộc tấn công có thể đến từ bên ngoài. Cuộc sống của anh ta nguy hiểm thực sự nếu anh ta mang theo một số tiền, như chúng ta biết, tiền bạc là của đất nước. Đoàn tùy tùng người An Nam, với những trường hợp ngoại lệ hiếm hoi, sẽ không bao giờ dám tấn công một người châu Âu, trừ khi đang ngủ hoặc mới ngủ. Hai hoặc ba người châu Âu đi du lịch cùng nhau có rất ít cơ hội bị tấn công, nhưng luôn luôn phải cẩn thận.

                                                         (Còn tiếp)

Thứ Bảy, 4 tháng 1, 2020



NAM KỲ THUỘC PHÁP: CUỘC SỐNG Ở SÀI GÒN
GHI CHÉP VỀ CUỘC HÀNH TRÌNH/ CỦA M. A. PETITON

(Tiếp Theo)



Chuẩn bị cho một cuộc hành trình
 vào nội địa của Nam Kỳ
 

Đồ dùng cần thiết

Điều đầu tiên để khởi hành là cần một chiếc thuyền, bạn hỏi tìm một chiếc thuyền từ một số người chèo thuyền và họ nói với bạn rằng đã có thuyền, rồi bạn phải tự đi xem. Đừng nói với ai về việc này. Nói cho cùng về nguyên tắc này là bạn sẽ cảm thấy khó chịu trên một chiếc thuyền An Nam nhưng nó có nhiều mức độ khó chịu (Nếu đi du ngoạn nhiều ở Nam kỳ thì cần phải đóng một con thuyền đặc biệt mà chúng ta có thể sắp xếp như mong muốn, có thể ngồi viết được trên đó, v. v.
Điều đầu tiên cần kiểm tra:
 1. Xem chúng ta có thể ngồi dưới mui thuyền không. Thật khủng khiếp khi trải qua vài ngày trên một chiếc thuyền mà không thể nằm dài xuống hoặc gập người lại.
2. Xem mui thuyền có ở trong tình trạng tốt không, bởi vì nếu bạn gặp mưa trong nhiều ngày và bạn đang ở trong một chiếc thuyền với mui để lại quá nhiều điều không mong muốn, bạn sẽ bị ướt, đối diện với tất cả sự bất cẩn hay tai họa, phải nói rằng vào mùa mưa, những cơn mưa rất dữ dội và đôi khi kéo dài đến nỗi rất hiếm khi tìm thấy một chiếc thuyền có mui vẫn hoàn toàn không thấm nước, bởi vì mui làm bằng lá chỉ có cùng một độ dày, làm thành một máng xối và bạn phải, trong sự bất động chịu đựng, hứng nước chảy vào bạn, tôi không nói từng giọt, mà là những tia nước dồi dào xối vào thân thể, không chừa với bất kỳ phần nào của con người bạn.
Không cần vội vàng gì, chỉ cần chỉ lợp một miếng tôn mỏng giữa hai lớp lá. Khi bạn chắc chắn rằng là mui coi như gần được, hãy khởi hành, nếu không thì hãy biểu họ chuẩn bị sử chửa cho thích hợp, không khởi hành khi bạn chưa chắc chắn những điều mà bạn yêu cầu chưa được đáp ứng.
3. Xem hoặc đúng hơn là kiểm tra thuyền có đủ số lượng mái chèo và người chèo không.
4. Xem nếu có hai bồn nước ngọt, một cho bạn, cái kia cho những người An Nam đồng hành.
5. Xem có củi cho bếp của bạn chưa. (Lưu ý) phải mua một số, bởi vì không bao giờ có.
6. Xem nui thuyền có đủ lớn cho bạn và người đồng hành không.
Khi bạn đã đáp ứng các điều kiện khác nhau này, bạn có thể đưa lên thuyền các vật dụng của mình. Đối với mỗi người châu Âu cần một chiếc nệm Cam Bốt, một loại nệm nhỏ có thể tự gập lại, được nhồi gòn từ cây gòn của xứ này, giá của nó chỉ một vài piastres, một chiếc mền len, một đôi tấm ra trải giường, một cái gối đầu An Nam nhỏ, một loại gối hình lăng trụ mà bạn thấy trong hầu hết các cái nhà, cuối cùng là mùng chống muỗi cũng một vài piastres. Kết hợp với hai chiếc chiếu và một cuộn dây da. Bạn làm thành một gói bằng cách đặt bên dười một chiếc chiếu, trên một chiếc, cuộn chúng lại và cột bằng cuộn dây da.
Trên thuyền, bạn trải tấm chiếu lên sàn, sau đó là nệm và mền, cuối cùng là chiếc chiếu thứ hai. Bạn treo mùng vào ban đêm phía trên nệm để bảo vệ bạn khỏi muỗi. (ít nhất đừng mong đợi thành công). Kèm theo vật dụng là một bình nước và một chén bằng sắt nhỏ, là bạn đã có những thứ gần như cần thiết cho một du khách.
 


Lương thực

Bạn cần mang theo hộp thức ăn đóng hộp, tính toán rằng một một hộp bình thường gồm hai khẩu phần.
Nói chung, tôi nghĩ bạn chỉ nên dùng thực phẩm đóng hộp được gọi là dự trữ và bổ sung, khi bữa tối không đủ.
Bạn có thể dễ dàng tìm thấy đậu đóng hộp ở Sài Gòn. đậu trắng, đậu xanh, nấm v.v ... với giá 1 hoặc 2 franc mỗi hộp, pa tê gan (4 khẩu phần) giá một piastre, v.v.
Trên hết là phải có hộp nước canh, những hộp này là quý giá. Một món súp tốt hỗ trợ tốt hơn bất cứ thứ gì, Đó là một trong những thực phẩm cuối cùng mà bao tử bẽ rạc của người Nam Kỳ có thể dùng để chịu đựng lâu dài.
Kể từ năm 1807, nước canh Liebig (extractum Carnis) đã bắt đầu lan rộng. Một lợi thế này là tỷ lệ lớn chất dinh dưỡng có trong một thể tích nhỏ; thứ hai, lợi thế là nó rắn và không có khả năng hư hỏng và chua như nước canh bình thường.
Để sử dụng nó, với một muỗng chúng ta lấy một vài gram rồi hòa tan trong nước nóng, và chúng ta có một nước dùng chấp nhận được,
Trong việc lựa chọnđồ hộp, hãy cẩn thận chỉ lấy những cái mà đáy của chúng không bị phồng ra, điều này cho thấy phần lớn sản phẩm bị phân hủy và giải phóng khí.
Ngoài việc bảo quản như quy định chung, bạn phải có chai mỡ heo để nấu với giá của Ofr. 70 c, Một khi những chai này được mua, tôi khuyên bạn nên đóng chúng lại bằng sáp nếu bạn không muốn ăn chung với kiến, Kiến rất thích chất béo, chúng đục nút chai và hàng trăm cái chết ngon trong chai mỡ heo.
(Chi tiết quan trọng).
Đầu bếp của đất nước này, có bàn tay có mùi nặng, phải tính đến điều này.
Bạn cũng phải có khoai tây Tàu hoặc Pháp và hành khô.
Đừng quên mang theo đường trắng. Để giữ sản phẩm này, vẫn phải chống lại kiến, kẻ thù không ngừng của chúng ta mọi lúc. Để chống lại kiến và độ ẩm của nơi này, đường được bán trong các hộp hai hoặc ba kilogam trong hộp thiếc có nắp hàn.
Cần mang theo chai dầu và giấm, muối và hạt tiêu, lọ mù tạt, lọ dưa chua, v.v.
(Lưu ý) không lấy những hộp dầu nhỏ phổ biến ở Nam Kỳ với nắp đậy bằng đồng. Chúng thật khó chịu và nguy hiểm.
 

Rượu

Mang theo số chai rượu mà bạn nghĩ là có tính đến sự hao phí khi bị vỡ. Hai chai 75 centilit mỗi loại, dường như đủ cho một người mỗi ngày.
Cà phê và rượu trắng, rượu vermouth, bitter, absinthe, các thành phần mà bạn phải sử dụng để cố gắng kích thích sự ngon miệng của bạn một cách giả tạo.
Bánh quy làm dự trữ. Bạn phải nghiêm ngặt với sự lựa chọn của mình, bởi vì nó thường bị mốc và có mùi như một con gián.
Khẩu phần của quân đội có thể cung cấp thông tin hữu ích. Do đó, nó bao gồm:
Bánh mì         0k. 750 (đủ).
Rượu             01, 40 centil, tôi đã nói ở trên để tính vào hai chai 01,75 centil,
Thịt                0k. 300 gram (đủ).
Tafia              01, 00 centilitres (đủ).
Cà phê          0.k. 035 gram (đủ).
Đường          0 k, 020 gram (đủ).
Bánh mì tươi có thể được mua tại hầu hết các trạm ở Nam Kỳ,
(Lưu ý,) Bánh mì khó có thể được giữ hơn bốn ngày, do nấm mốc.
 

Việc chiếu sáng

Việc chiếu sáng, cần hai đèn lồng to với một vòng dây lớn để bảo vệ kính (hệ thống của hải quân). Mang theo dầu dừa và bấc để sử dụng cho những chiếc đèn lồng này.
Điểm chánh quan trọng là có ít nhất hai bộ lọc tốt cho nước. Một bộ lọc đang sử dụng và một bộ lọc dự trữ. Ở Nam Kỳ phải cần uống nước lọc, người ta bán ở Sài Gòn với giá một hoặc hai piatres, loại chai đá sa thạch xốp có cổ bằng kim loại. Chúng ta phải đóng miệng chai lại, thả trôi nổi trong bồn. Chai đầy sẽ đầy nước lọc khá nhanh và bạn có thể đổ nó vào những cái bình nhỏ dể bể bằng đất. Chúng ta cũng có thể mang theo bộ lọc than (hệ thống thông thường,) Đó là một xi lanh bằng than xốp.
Các vật dụng nhà bếp và cà mên mang càng ít càng tốt, cần mang hầu hết tất cả các vật dụng bằng sắt. Cần dao có trang bị đồ mở nút chai.
Phải cần một người nào đó kiểm tra các vật dụng nhanh chóng, mỗi lần như vậy nếu bạn thấy cần thiết vì bạn không muốn thấy mọi thứ biến mất, có thứ bị thiếu, đó là điều không thể tránh khỏi, và bạn không khỏi phải nghe câu trả lời sáo rỗng khi bạn thấy nấy món đồ bị mất: (Ồ, điều này đã xảy ra từ lâu rồi). Một câu trả lời ngọt ngào chứng minh theo cách vòng vo, đó là sự thật, rằng người gia nhân thực sự giống nhau ở tất cả các quốc gia.
Ví dụ, nếu bạn đã mang theo rương nhỏ dành cho viên chức đựng đồ nấu ăn và chén, cho bốn người, thì đây là lúc để sử dụng. Những rương nhỏ này rất thuận tiện khi chúng được bày biện. Chúng nằm trong các thùng rất chắc chắn có tay cầm bằng sắt cho phép chúng được treo ở mỗi bên của con la. Rất tiếc giá của những rương nhỏ này rất cao. Với một vài sửa đổi chi tiết, chúng có thể phù hợp với Nam Kỳ hơn những loại sản xuất ở Paris.
Cần phải nhớ rằng, theo nguyên tắc trong quá trình chế tạo các rương này, cho Nam Kỳ không hộp nào được dán keo vì độ ẩm, mọi thứ phải được vặn vít. không chú ý đến những quan sát trái ngược sẽ không làm thất vọng bất kỳ thương gia hoặc nhà cung cấp nào không muốn thay đổi hình dạng của chúng. Hiện tại những rương này không tồn tại ở Nam Kỳ nên tôi sẽ cho rằng bạn cũng không có chúng.
Có một số giỏ mây có hai tay cầm và nắp, đánh số các giỏ này và viết những gì bạn đặt vào mỗi cái, Cần sẵn nguồn dụy trữ hiện tại và phần còn lại tại cửa tiệm tạp hóa trong hầm, thường là dưới các tấm ván di động được dùng làm sàn cho thuyền. Nếu không nghi ngờ bất cứ điều gì, bạn coi thường lời khuyên nhỏ này như những lời khuyên còn lại thì có thể xảy ra trong suốt thời gian. kinh nghiệm sẽ nhanh chóng dạy cho bạn rằng sự thoải mái có một chiếc thuyền không có nhiều không gian để di chuyển, tất cả sự thoải mái mà tôi có, tôi nói, là tốn công năm hoặc sáu lần trong một ngày để có một chai mỡ với một chục trứng. Bạn chuẩn bị cho bữa tối, nào chúng bắt đầu!  Bây giờ là rượu mà chúng ta quên: đã nhanh chóng nằm dưới cùng của sàn. Chúng tôi dằn mọi thứ bên phải và bên trái: Nệm Cam Bốt, v.v và v.v. Bạn thu mình vào góc ở mạn phải chứ không phải mạn trái vì đã có giở rượu. Để tìm kiếm! Đó là mạn phải cùng phía của bạn, bạn phải đặt mọi thứ trở lại đúng vị trí, sau đó làm xáo trộn mọi thứ. Bạn vượt qua cái hố mở dưới chân mình, bạn sẽ không làm rơi một con dao hay một chiếc dép nào sẽ trôi bập bềnh ở đáy của sàn. Trong thời gian này ở góc của bạn, bạn không thể có cử động nào, những con muỗi không bao giờ bỏ lỡ dịp nào cũng phải đặc biệt dễ chịu, chúng thích thú với tất cả các điểm trên cơ thể bạn có thể tiếp cận được và khiến bạn khó chịu? Ôi kiên nhẫn, kiên nhẫn! Thật là một đức tính của các vị thần! Cuối cùng chúng tôi lấy ra một ít rượu; bạn ổn định lại để bắt đầu ăn.Nào bắt đầu! Đây là cái mở nút chai bị bỏ quên, kia là hộp đồ hộp, đó là muối hoặc đường, v.v. Vì vậy, bạn phải tự mình lo liệu mọi thứ, đừng tin vào đầu bếp của bạn. Nếu bạn có một người phụ việc da trắng, đừng tin nhiều vào trí thông minh hay tinh thần dự kiếncủa anh ta.; Dù anh là người Creole.
Vào buổi sáng ngày khởi hành, bạn mua tất cả các thực phẩm ở chợ ít nhiều được còn mới trong nội địa của đất nước: như gà, vịt, trứng, trái cây, thịt. (Hãy nhớ rằng thịt chỉ tồn tại 24 giờ ở Nam Kỳ.) Mua gạo (lúa) cho gia cầm. Trên hết, đừng quên có một nguồn cung cấp nhỏ nút chai, kim may Paris, chỉ, điều này luôn hữu ích.
Tôi chưa nói với bạn về vũ khí. Đây là những gì nói chung chúng ta hay quên nhất, điều đó không có nghĩa là hầu hết thời gian chúng ta không cần súng càng nhiều càng tốt. Điều chính là phải có trong tay, một vũ khí có thể sử dụng ngay lập tức.
Tôi tin rằng cần hai khẩu súng lục được giữ khô ráo, luôn ở trong tầm tay khi ban đêm và một khẩu súng trường tốt với dao bayoniiette là vũ khí tốt nhất để có.
Thức giấc canh giữ là cần thiết. Những người thận trọng và bình tĩnh sẽ rất hiếm khi bị tấn công ở Nam Kỳ; nhưng bạn nên luôn luôn cẩn thận vào ban đêm.
Nói chung, ở Nam Kỳ trong các chuyến đi ở các con kênh, không cần phải vội vàng, giống như mọi nơi cần phải được trang bị cẩn thận, tôi không nói về những chuyến đi trong những chiếc pháo thuyền được thực hiện trong những điều kiện hoàn toàn khác nhau.
Nếu bạn muốn thực hiện một chuyến đi hiệu quả như những quan sát viên, bạn cần phải có một thông dịch viên người An Nam thông minh và trên hết là có thiện chí, Đó như là một loài chim quý hiếm để tìm, họ có giá 18 piastres hoặc 100 franc mỗi tháng.

                                                                                    (Còn tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...