KẾ HOẠCH CHỈNH TRANG KHU THỦ-THIÊM
1958 – Đã có dự án Hoàng Hùng: Xây dựng Thủ-Thiêm thành khu ngoại giao, hành chính để nới
rộng Đô-thành. Nhưng toàn khu bị bọc trong khúc sông Saigon lượn tròn, mà nhiều
chỗ còn rậm rạp hoang vu, khó bảo vệ an-ninh, nên dự án không được tiếp tục
nghiên cứu.
1964 – Lại có chương trình
Trần-Lê-Quang: Xây nhà 2 tầng rẻ tiền cho dân
chúng để giải toả các khu vực quá đông đúc của Đô-thành.
1965 – Kế hoạch Doxiadis: Dùng Thủ-Thiêm làm một thí điểm cho một kế hoạch gia-cư để
thực hiện chương-trình tổng quát và dài hạn chỉnh-trang chung cả toàn vùng
Saigon và lân cận.
SAIGON ĐÔNG NGHẸT
Năm 1939 dân số của Saigon ước lượng là 240.000
người. Hiện nay gồm cả Chợlớn đã lên tới 2.400.000 chưa từng ở đâu trên thế
giới có sự gia tăng dân số quá nhanh trong khoảng thời gian quá ngắn ấy. Bởi
Việt-Nam trong thời gian ấy phải chiụ ảnh hưởng của một trận thế chiến, một
trận giặc tái chiếm thuộc địa, một trận nội chiến và một trận du kích chiến,
nên một mạt bị tiêu mòn sinh lực, thiếu hụt nhân công, một mặt mất mát tài
nguyên, và một mặt khác dân chúng ở miền Bắc và các vùng quê mất an ninh nhào
về Saigon, khiến cho Saigon bị thiếu hụt nhà ở một cách kinh khủng. Thêm số
sinh sản mơi năm mỗi tăng mại thiếu đất để mở mang, giá đất để làm nhà cao lên
vùn-vụt, đồng tiền kiếm khó khăn, số vốn đầu tư vào việc xây nhà của tư nhân
hết sức hạn chế. Vì vậy mà các xóm nhà lá chen chúc, những người sống bên những
cống rãnh dơ bẩn, thiếu điện nước, khí trời, thiếu mọi kiều kiện vệ sinh, không
thể tượng tượng được thế nào tồi tệ hơn nữa. Nạn cháy nhà thường xuyên đe doạ
cả một vùng hàng ngàn căn trở lên. Và những bệnh truyền nhiễm cũng hết sức ghê
sợ.
CÔNG TY DOXIADIS TIẾP TAY
NGHIÊN CỨU
Chính-phủ Việt-Nam Cộng-Hoà, trước những
đòi hỏi cấp bách và quá lớn lao ấy, đã đề xướng một chương trình hành động ngũ
niên để giải quyết vấn đề nhà ở và một chương trình tổng quát dài hạn để chỉnh
trang chung vùng Saigon và lân cận. Công ty quốc tế DOXIADIS ở Athènes, Hy-Lạp
đã được lựa chọn để lo liệu giúp việc nghiên cứu chương trình nói trên. Ngày
3-10-1964 một văn kiện xác định mục tiêu việc nghiên cứu đã được ký kết giữa
Công ty DOXIADIS và Ông Tổng-Giám-Đốc Kiến-Thiết đại diện Bộ Công-Chánh.
Sau đó ngày 20-1964, một khế ước đã được
ký kết giữa Công-ty và Chính-quyền Việt Nam để cộng tác trong
việc nghiên cứu và soạn thảo một chương trình mục tiêu ấn định.
Chương-trình dài hạn:
Chương trình dài hạn 35 năm (một thế hệ
người) từ 1965 đến 2000 chỉnh trang vùng Saigon, Gia-Định, chú trọng đến việc
giải quyết gia-cư. Theo dự trù của nhóm chuyên viên Doxiadis, Saigon sẽ bành
trướng về hướng Đông, vượt qua sông Saigon và tiến lên hướng Bắc sông song với
dòng sông Đông-Nai và Saigon. Nếu theo đà bánh trướng nhẩy vọt của dân số
Đô-thành trong những tháng vừa qua thì có thể đến năm 2000, dân số lên đến
9.200.000 người, và nếu căn cứ và mật độ 100 dân/1 ha tương lai sẽ cần diện
tích ước lượng 5.000 km2 một hình chữ nhật 24×26 km.
Trước một sự bành trướng lớn lao như vậy,
cần đặt trước một kế hoạch xây cất và chỉnh trang, mà kế hoạch này phải nằm
trong kế hoạch kiến-thiết toàn quốc do Hội đồng Kinh tế Quốc gia soạn thảo.
Một trong những khu vực đông dân
cư ở đô thành.
Không tiên liệu trước, thì ắt sau này sẽ
vấp phải nhiều vấn đề nan-giải. Do đó Nha Tổng-Giám-Đốc Kiến-thiết và Thiết-Kế
Đô-Thị, bằng tờ trình số 2102 ngày 30-07-1965 gởi Ông Uỷ-viên Giao-thông
Công-chánh đã đề nghị ý kiến cần thành lập một Uỷ-ban Quốc-gia chỉnh trang lãnh
thổ hoạt động dưới sự hướng dẫn của Hội đồng Kinh tế Quốc-gia và huy động một số
đông chuyên viên Việt-Nam và ngoại quốc đủ mọi ngành (Kiến trúc sư, Đô thi gia,
Kỹ sư, Kinh tế gia, Luật sư, Xã hội học, Địa chất học, …) để điều tra và nghiên
cứu những vấn đề thiết yếu cho Đô-thị tương lai.
Chương-trình ngắn hạn:
Vì chương trình và kế hoạch chỉnh trang ấy
đòi hỏi nhiều ngày giờ nghiên cứu, nên không thể một mai một chiều hoàn thành
ngay được, trong khi ấy, không có cách gì đối phó với sức bành-trướng tự nhiên
của dô thành, thì mỗi ngày lại sẽ có thêm nhưng vấn đề khó khăn mới chồng chất
thêm.
Cho nên, bắt buộc phỉa có một chương trình hành động đặc biệt (chương trình xây
cất ngắn hạn) để thỏa mãn ngay những nhu cầu cấp bách về nhà ở.
Đường sá mỗi ngày mở rộng thêm
mà xe cộ nhiều khi vẫn ứ động.
Kế
hoạch chỉnh trang Thủ-Thiêm:
Thủ-Thiêm được lựa chọn
làm thì điểm đầu tiên cho việc chỉnh-trang đô thành là vì nơi đây nằm gần vùng
khuếch trương kỹ nghệ Thủ-Đức và bến tấu Saigon, đất rộng (800 ha) tương đối
còn thưa thoáng, gần trung tâm thành phố (độ 2km đường chim bay) gần hệ thống
cung cấp điện nước, đất
tuy thấp nhưng chỉ cần đắp thêm 0m80, ở nội địa lại có sẵn hồ
ao sông đào.
Kế hoạch này nhằm mục phiêu:
a) Đáp ứng nhu cầu cấp thời.
b) Cung cấp cho các chuyên viên kinh
nghiệm quý báu về kỹ thuật xây cất và xử dụng vật liệu xây cất.
c) Huy động các tài nguyên với mục đích
phát triển kỹ nghệ sản xuất vật liệu, và chuyên viên hoá một số công nhân về
ngành xây cất.
Ngoài ra còn mục phiêu xã hội và hình
chánh nữa để tổ chức dân sinh theo nguyên tắc căn bản liên gia, Khốm, phường,
như tổ chức hành chánh các quận hiện hữu.
Diện tích dành cho các công sở, cơ sở văn
hoá xã hội, kinh tế, các đại lộ, kinh hồ đào và công viên choán tới 50% diện
tích đất. Ngoài ra tại phía Tây và Nam khu gia cư có dự trù 1 khu kỹ-nghệ và
kho xưởng bến tầu để giải toả bớt kho bến Khánh-Hội hiện hữu, tại phía Bắc là
những khoảng xanh cùng khu Lâm-viên và giải trí công-cộng, tại phía Đông Nam có
dự trù 1 khu đất độ 180.000m2 để thiết lập 1 ngư cảng cho Đô-thành Saigon.
I. –
Phân khu
Thứ
tự |
Diện
tích |
Số
nóc gia |
Các
tổ chức công cộng |
Các
cơ sở giải trí và tôn giáo |
Tổ
hợp I (liên gia) |
3.000 m2 |
40 |
||
Tổ
hợp II (khóm) |
15.000 m2 |
120 |
– ấu
trĩ viện |
|
Tổ
hợp III (liên khóm) |
45.000 m2 |
600 |
–
tiểu học |
-công
viên |
Tổ
hợp IV (phường) |
150.000 m2 |
2.400 |
–
trung học |
-công
viên |
Tổ
hợp V (quận) |
600.000 m2 hay |
15.000 |
-V.P.Quận |
-công
viên |
II. Khai quang
Tất cả đất vùng An Khánh (Thủ Thiêm)
cần được đắp cao độ 0m 80 để tránh ẩm thấp và ngập lụt vào mùa mưa. Khôi lượng
đất sẽ lấy ở các hồ đào, kinh.
III. Kiều lộ
a} Đạo lộ: gồm có 4 loại khác nhau:
— Loại V1— Rộng 80m gồm 2
đường đi bộ, 4 đường xe cộ lưu thông và các giải bất trúc tạo khoảng giữa các đường.
— Loại V2— Rộng 40m gồm 1
hay 2 đường đi bộ, 2 đường xe cộ lưu thông và các giải bất trúc tạo,
— Loại V3— Rộng 20m gồm 2
đường đi bộ và 2 giải bất trúc tạo kèm 2 bên 1 đường xe cộ lưu thông.
— Loại V4— Rộng từ 4m trở
lên dùng cho bộ hành.
b) gồm 3 loại khác nhau:
— Loại P1— Nằm trên các trục
lưu thông và bắc ngang kinh lớn.
— Loại P2— Dùng cho việc
lưu thông các xe cộ trên các đường V2 và V3.
— Loại P3— Dùng riêng cho
bộ hành.
IV. Tiện nghi
a) — Điện— : hệ thống trạm biến điện
từ hệ thống 66Kw, cần có trong khu, thành 15Kw, đến 400v và 230v để cung cấp
cho dân chúng và thắp sáng đường phố.
b) — Nước uống— Hệ thống chánh của quận 9, nối liền với hệ thống
nước Saigon Đồng - Nai nôi xa lộ, sẽ được thiết lập dọc theo các trục giao
thông chính. Sẽ có những ống phụ dẫn nước vào tận các nhà phố trong mỗi khu vực.
c) — Cống rãnh — Hệ thống kinh và hồ
đào có thể dùng vào việc đưa nước dơ từ các cống rãnh, hầm vệ sinh ra sông lớn,
Do đó tất cả các hầm vệ sinh trong quận 9 phải có bộ phận lọc vi trùng hợp lệ để
nước lưu thông trong kinh và hồ đỡ bị ô – uế và biến thành ổ các bệnh truyền hiễm.
V. Những khó khăn khi thực hiện công
tác
Về phương diện đụng chạm đến quyền tư
hữu vè đát đai của dân chúng chắc Chính quyền cũng đã có nhiều biện pháp để khiến
cho dân được hưởng nhiều tiện nghi mà không ai bị thiệt thòi nhiều.
Chẳng hạn như Chính quyền có thể mua đất
của tư nhân để làm đường theo một giá biểu tương thuận, rồi những phí tổn về công
tác hạ tầng cơ sở sẽ quản phần cho các diện tích đất đai còn lại phải chịu,
theo danh nghĩa thuế thặng dư giá trị. Người bị mất phần đất bào để làm đường và
lộ giới thì được bồi thường khoản ấy, còn diện tích đất còn lại bao nhiêu người
ấy sẽ phải chiếu theo số lượng ấy mà chịu phí tổn.
Để cho các thửa đất vuông vắn theo đồ
bản chỉnh trang cũng có thể dể thực hiện việc chỉnh định địa giới theo lối trao
đổi trên những giá đất và thuế đã ấn định.
Cho được hợp lý hơn, thì có thể chia đất
thành khu vực dọc theo trục giao thông chính, ở sát ngay cạnh đại lộ thì giá
cao, còn càng lùi xa vào sâu thì giá sẻ càng bớt đi. Thêm yếu tố đất cao phải đắp
ít, đất thấp phải đắp nhie62um để láy giá phí tổn ấy làm căn cứ cho các cuộc
trao đổi trực tiếp của tư nhân hay có sự trung gian của nhà nước.
Trường hợp những chủ bị mất hết đất vì
đường và lộ giới, nhận được số tiền bồi thường trong tay, nhưng không chủ nào
chổ khác chịu bán đất cho, hoặc có bán cũng sẽ bán theo giá đầu cơ, thì đó là cả
một sự rắc rối lớn. Có lẽ vì vậy mà Chính Quyền cần phải can thiệp bằng một đạo
luật ấn định cho mỗi chủ gia chỉ được phép giữ một lô đất để ở, còn số dư phải
sang nhượng cho những chủ đất kém may mắn khác.
Cùng trường hợp này, nếu chủ đất nại
cớ giữ đất lại cho con cháu không chịu bán thì theo luật định, chỉ được giữ lại
tối đa là 66%, còn lại phải nhường cho Chính quyền đề mở đường và xây cất các cơ
sở công cộng, hoặc để đền bù cho những chủ bị mất hết đất để làm đường.
Thêm nữa, nếu người ta cứ giữ đất đấy
không làm nhà, nại cớ chưa đủ tiền, trong khi người khác có tiền, có thể làm nhà
ngay thì lại không có đất. Chính quyền phải trù liệu những biện pháp thuế khóa đủ
nặng để đánh vào những đất trống nếu quá một thời hạn 3 năm không xây dựng. hoặc
giả để cho tư nhân tự lo liệu lấy việc xây dựng theo kiểu mẫu tiêu chuẩn.
bài viết được lấy từ tạp chí Xây-dựng-mới,
số đặc biệt về gia cư.
K.D.số 1289/BTT ngày 10-07-1967
Tú Nguyễn Quang
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét