Sự thành lập Sài Gòn
từ thời chúa Nguyễn đến năm 1954
TS Vũ Hồng Liên
(Tiếp Theo)
Nhà Nguyễn, vào nửa sau thế kỷ 18, bị
áp lực nặng nề từ cả đối thủ truyền thống của họ, họ Trịnh, và một đối thủ mới,
Tây Sơn từ Bình Thuận. Chúa Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn đánh bại vào đầu năm
1775. Cùng với người cháu của mình là chúa Nguyễn Phúc Ánh, Nguyễn Phúc Thuần bỏ
kinh đô Phú Xuân và trốn bằng tàu vào Phủ Gia Định khi bị Tây Sơn truy đuổi.
Chúa Nguyễn đã định cư ở Sài Gòn nhưng không lâu sau bị đánh bại và đang di cư
trở lại. Năm 1777, Tây Sơn đánh chiếm Gia Định và giết hết các hoàng phi nhà Nguyễn,
trong đó có chúa Nguyễn Phúc Thuần. Nguyễn Phúc Ánh, một thanh niên mới 15 tuổi,
một mình thoát khỏi cuộc thảm sát để tiếp tục cuộc chiến với Tây Sơn.
Để đối phó với cuộc tiến công của Tây
Sơn, nhà Nguyễn đã xây dựng một bức tường đất dọc sông Sài Gòn. Nhiều sông và
kênh rạch trong khu vực sau đó trở thành một phần quan trọng trong chiến lược
quân sự của nhà Nguyễn từ năm 1778 trở đi. Nhiều con kênh đã bị chặn hoặc bị “đặt
địa lôi” bởi những chiếc cọc nhọn chìm để ngăn tàu Tây Sơn vào khu vực này. Chiến
tranh là thời kỳ thảm khốc được Trịnh Hoài Đức miêu tả là 'thiếu thốn mọi thứ,
không có hàng vào chợ, chỉ có lương thực đơn giản, muối trở thành hàng hiếm, gạo
lại càng hiếm, cả dân thường và quan chức đều khổ.
Trong suốt hai thập kỷ sau đó, Nguyễn
Huệ của Tây Sơn và chúa Nguyễn cuối cùng là Nguyễn Ánh đã đánh xuôi ngược bờ biển
phía Nam Việt Nam theo gió mùa. Vùng đất Gia Định và thành phố chiến lược Sài
Gòn đã đổi chủ ít nhất năm lần. Khi khu vực này thuộc về nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh
đã thiết lập luật lệ và quản lý như một lãnh thổ của riêng mình. Khi Tây Sơn tiếp
quản, họ đã thiết lập luật lệ và thuế của riêng mình. Dù thích hay ghét, những
người dân khác sống trong và xung quanh Sài Gòn đã bị bắt vào cuộc chiến, chẳng
hạn như người Khmer trong quân đội nhà Nguyễn và người Tàu bị kéo vào cả hai
quân đội. Rõ ràng, họ đã đổi phe khi những người chủ mới đến và đi, và do đó, họ
chịu chung số phận với phe đã chọn của họ. Đặc biệt, người Tàu đã bị trừng phạt
nặng nề tại khu đô thị Cù Lao Phố / Biên Hòa vào năm 1773, khi Tây Sơn là kẻ
chiến thắng. Cảng Đại Phố sầm uất của họ bị phá hủy, nhà cửa, cửa hàng và kho
chứa đều bị thiêu rụi. Những người thoát khỏi cuộc tàn sát đã chuyển xuống để
hình thành một vùng đất Trung Hoa mới ở Chợ Lớn ngày nay.
Tháng 1 năm 1780, thừa thắng xông lên
ở Gia Định, Nguyễn Ánh xưng vương ở Bến Nghé / Sài Gòn nhưng không quản lâu năm
ở thành phố do Tây Sơn quay lại đánh đuổi ông, buộc ông phải trốn về phía nam,
về Hà Tiên, sau đó là Xiêm, và đến các đảo trong Vịnh Thái Lan. Năm 1782, người
Tàu ở Chợ Lớn ngày nay một lần nữa bị Tây Sơn trừng phạt là một trong những vụ
thảm sát tồi tệ nhất trong lịch sử miền Nam Việt Nam, khi hơn 10.000 người Tàu bị
giết, xác của họ vứt bừa bãi trên các con sông và kênh rạch của khu vực. Nước bị
ô nhiễm nặng đến mức hàng tháng trời, không ai dám đụng đến cá và các sản vật
khác trên sông. Cuộc tàn sát của những người Tàu khởi nghĩa đã tạo ra sự thiếu
hụt nhiều mặt hàng, chẳng hạn như giá trà đã tăng gấp nhiều lần trong năm sau.
Tuy nhiên, lần này, người Tàu đã cố gắng
tập hợp lại và phục hồi đủ để tiếp tục phát triển khu vực xung quanh của họ ở
Chợ Lớn, dần dần tiếp quản nhiều khu phố hơn và biến Chợ Lớn thành Khu phố Tàu
của riêng họ. Được xây dựng về phía Nam -Tây Nam của Sài Gòn ngày nay, Khu Phố
Tàu Chợ Lớn đã hình thành dọc theo kênh Bến Nghé. Dọc hai bên kênh họ xây bậc
đá và cầu tàu, cửa hàng và nhà kho bằng gạch, một số ngôi nhà dành làm khách sạn
cho các thương nhân người Hoa từ xa đến buôn bán. Phong cách hoạt động thương mại
chính khi đó và bây giờ là bán buôn. Các sản phẩm chính là gạo, đồ tươi sống,
cá và muối từ Đồng bằng sông Cửu Long nhưng một số lượng lớn các sản phẩm khác
là cũng do các thương nhân người Tàu nước ngoài đưa đến đây.
Tầm quan trọng của kênh Bến Nghé đối
với chúa Nguyễn Ánh ở vùng Sài Gòn đã thúc đẩy vua Minh Mạng cho khắc hình tượng
của nó lên chiếc lư đồng lớn nhất tượng trưng cho vua Gia Long vào năm 1836 khi
ông tạo ra chín chiếc lư đồng là biểu tượng của nhà Nguyễn ở Huế.
Chúa Nguyễn Ánh đã tái chiếm Gia Định
trong một trận chiến quyết định vào năm 1790 và cuối cùng đã có thể lập kinh đô
tại Sài Gòn. Sau đó, Nguyễn Ánh bắt đầu củng cố khu vực này làm căn cứ cho một
cuộc chiến tranh lâu dài với Tây Sơn bằng cách thiết lập luật pháp và trật tự, ấn
định mức thuế và tổ chức canh tác đất đai. Tất cả những người lính đã được đưa
đến làm việc trong các đồn điền quân đội khắp đất Gia Định để tích trữ gạo và
các lương thực chính khác. Nông dân được tuyển chọn và khuyến khích thành lập
các nhóm tiên phong để phát triển các vùng sâu, vùng xa, những người quá nghèo.
mua thiết bị của riêng họ và động vật được cung cấp gia súc và nông cụ mà họ sẽ
trả lại bằng một phần hoa màu. Các loại thuế thường được đánh bằng các biện
pháp lúa gạo. Binh lính và nông dân cũng như được miễn nghĩa vụ lao dịch trong
một năm nếu họ đã nộp đủ thuế vào năm trước.
Đối với Sài Gòn, thủ đô mới của mình, Nguyễn Ánh đã cho xây dựng một thành lũy khổng lồ hình bát giác để ngăn Tây Sơn gọi là Thành Rùa, hay Thành Quy, theo hình dáng của nó mà chúa Nguyễn hiện là vua đã tự chọn. Tòa thành thường được gọi là Bát Quái (Ba-gua trong Kinh Dịch). Nó được kiến trúc sư người Pháp Théodore Lebrun thiết kế theo phong cách pha trộn giữa Pháp và Việt và được xây dựng kiên cố theo nguyên tắc Vauban. Việc xây dựng thành này sau đó đã tạo cảm hứng cho Nguyễn Ánh tạo nên kinh thành Huế nổi tiếng hơn nhiều sau khi ông lên ngôi Hoàng đế. Gia Long năm 1802. Kinh thành Huế đã khác hình dạng và kích thước nhưng theo phong cách phòng thủ tương tự như Vauban.
Việc xây dựng Thành Quy do 30.000
binh lính làm việc cả ngày lẫn đêm dưới sự giám sát của Đại tá Victor Ollivier,
một trong những sĩ quan thân tín của Nguyễn Ánh lúc bấy giờ. Nó được bao bọc bởi
ba dòng sông tự nhiên, sông Sài Gòn đến phía Đông giáp rạch Thị Nghè và phía
Nam giáp kênh Bến Nghé. Chu vi thành đo được 3.800 mét, có 8 cửa, mỗi cửa có
tên riêng như Càn Nguyên, Lí Minh, Khôn Hậu, Khảm Hiền, Chấn Hành, Cấm Chí, Tốn
Thuận, Đoài Duyệt dưới thời Nguyễn Ánh. / Gia Long. Các cánh cổng được đổi tên
theo Vua Minh Mạng kế vị, làm Gia Định, Phiên An, Củng Thần, Vọng Thuyết, Phục
Viễn, Hoài Lai, Tĩnh Biên, Tuyên Hóa.
Bên trong, thành được tỏa ra bởi 8 đường
chánh, mỗi con đường bắt đầu từ một cái cổng. Con đường ngang chánh chạy ngang
qua trung tâm thành trùng với đường Hai Bà Trưng ngày nay. Nội thất của thành
được phục vụ bởi một hệ thống kênh đào được thiết kế nhằm mục đích thủy lợi và
giao thông, hai trong số đó chảy ra sông Sài Gòn từ lòng thành, nơi đặt các
cung điện của vua, thái tử và hoàng hậu, hai bên là kho vũ khí, kho vũ khí, bệnh
viện và các công trình ngoại vi khác. Một xưởng đóng tàu lớn được xây dựng ở một
góc của thành, bên bờ sông Sài Gòn, nơi nối với rạch Thị Nghè. Tại đây, các tàu
chiến đủ hình dạng và kích cỡ được đóng để nhà Nguyễn tiếp tục cuộc chiến chống
Tây Sơn.
Các bức tường chu vi của Thành Quy được
xây dựng bằng đất và lất từ từ Biên Hòa, được gia cố bằng các tháp súng và nhà
bảo vệ. Mỗi bức tường được đo cao hơn 5 mét, bao quanh khu vực xung quanh Nhà
thờ Đức Bà Sài Gòn ngày nay, nhưng liệu tâm của thành có trùng với Nhà thờ
chính tòa hay không, như một số báo đã nêu. các học giả, đang được tranh luận.
Lý do đơn giản cho điều này là, nếu Hai Bà Trưng là con đường chính chia kinh
thành thành hai đoạn bằng nhau, thì trái tim của nó không thể là Nhà thờ, nằm
cách Hai Bà Trưng vài trăm mét về phía nam theo bản đồ ngày nay, trừ khi là đường.
ở một điểm thấp hơn vị trí của nó ngày hôm nay. Cũng theo bản đồ này, tường
thành trùng với đường Đinh Tiên Hoàng / Tôn Đức Thắng, Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Lê
Thánh Tôn, Nguyễn Đình Chiểu.
Sau khi hoàn thành, có vua ở tại chỗ,
Thành Quy trở thành điểm hội tụ của mọi giao thông đường bộ và đường sông, trái
tim của các trục đường chính nối Sài Gòn với Phnôm Pênh, đồng bằng sông Cửu
Long trù phú lúa gạo, vị trí chiến lược của Biên Hòa và hệ thống ven sông dẫn
ra tuyến Hàng hải Đông Tây. Tầm quan trọng chính trị của Hoàng thành và các hoạt
động thương mại nhộn nhịp của nó sau đó đã trở thành một thỏi nam châm thu hút
nhiều người đến định cư xung quanh Các bức tường thành và rải rác dọc theo một
dải đất giáp rạch Bến Nghé, đến Chợ-Lớn cách đó vài km. Quy hoạch đô thị của
khu vực xung quanh Hoàng thành được giao cho một kiến trúc sư người Việt Nam,
Trần Văn Học, người đã bố trí và chia khu vực này thành các khu hình vuông có
hai bên là những con đường thẳng tắp, tương tự như thiết kế của một bức tranh
sơn mài.
Trong hơn 10 năm, từ 1790 đến 1801,
Thành Quy là nơi đóng quân của Nguyễn Ánh / Gia Long trong chiến tranh gió mùa
với Tây Sơn tiếp tục cho đến năm 1799 khi Nguyễn Ánh giành được chiến thắng quyết
định tại Quy Nhơn. Hai năm sau, ông tiến về phía bắc đến Hà Nội và cuối cùng thống
nhất đất nước vào năm 1802. Chỉ sau đó Nguyễn Ánh từ bỏ Thành Quy để vào định
cư ở Huế. Thành được hạ cấp để trở thành một pháo đài canh giữ vùng đất phía
nam. Phủ Gia Định được đổi tên là Trấn Gia Định và đặt dưới quyền cai quản quân
sự. Bảy năm sau, lại đổi tên là Gia Định Thành do một phó vương cai quản. Tổng
đốc quân sự đầu tiên của Gia Định Thành là Nguyễn Văn Nhơn và phó vương cuối
cùng là Lê Văn Duyệt.
Ngay cả khi không có sự hiện diện của
nhà vua, thành phố Sài Gòn / Chợ Lớn vẫn tiếp tục phát triển. Vị trí của 'thành
phố' Sài Gòn được Trịnh Hoài Đức mô tả là khoảng 6 km về phía nam của thị trấn
và được phân bố bởi những con đường thẳng cắt nhau tạo thành những khu phố
vuông nơi người Việt và người Tàu cùng sinh sống.
‘Những ngôi nhà, cửa tiệm san sát dọc
hai bên đường bán gấm lụa, gốm sứ, giấy, đồ trang sức, sách, thuốc, bên cạnh những
quán trà, tiệm hủ tíu. Từ đầu này đến đầu kia của thị trấn không thiếu thứ gì. Ở
đầu phía bắc có một ngôi đền và ba hội quán người Tàu dành cho các gia tộc Phúc
Kiến, Quảng Đông và Triều Châu. Vào ngày rằm, khu vực này biến thành một đô thị
sầm uất, ồn ào, nơi các chàng trai và cô gái ra đường dạo chơi. Trong vùng có một
cái giếng nổi tiếng, nước trong và ngọt, không bao giờ cạn. Một con sông nhỏ chảy
qua khu vực này, qua đó có một cây cầu gỗ được xây dựng và lợp mái ngói. Ở giữa
khu vực này có chợ Bình An, nơi trưng bày những mặt hàng quý hiếm từ núi, sông,
biển cùng với các sản phẩm địa phương. Vào ban đêm, khu chợ được thắp sáng bởi
những chiếc đèn lồng để các hoạt động thương mại tiếp tục diễn ra.”
Các loạt nhà của gia tộc Trung Hoa và
những ngôi đền của họ chiếm một phần tư của Chợ Lớn ngày nay. Cùng với việc xây
dựng đường xá, nhiều kênh đào được đào trong thời kỳ này, kênh quan trọng nhất
được gọi là An Thông, một phần của kênh Bến Nghé, nơi có một số các kênh nhỏ
hơn như Rạch Cát và Chợ Đệm hợp lại, nối hai sông tự nhiên Vàm Cỏ Đông và Tây
và Đồng bằng sông Cửu Long với khu vực Chợ Lớn. Hệ thống đường thủy đặc biệt
này là nguyên nhân chính giúp cả Chợ Lớn và Sài Gòn phát triển thịnh vượng dưới
thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và một phần của Tự Đức.
Dưới thời vua Gia Long, vua Minh Mạng,
Thành Quy do thái giám Lê Văn Duyệt cai quản, người được bổ nhiệm vào vị trí
này hai lần, lần đầu vào năm 1812 - 16 dưới thời Gia Long, và lần nữa vào năm
1820 - 32 dưới thời vua Minh. Mạng. Ông được biết đến như một Ông lớn quyền lực,
là một người tuân thủ kỷ luật nghiêm khắc, nhưng lại rất đáng sợ và được người
dân địa phương tôn trọng, những người còn sót lại của người Chăm và người Khmer.
Phó vương Gia Định là một vị trí quyền lực vì nó có quyền tài phán đối với toàn
bộ miền Nam Việt Nam, vùng đất Bắc tự trị của người Chăm ở Bình Thuận và
Campuchia, là chư hầu của Việt Nam vào thời điểm đó. Khác với vua cha hoàn toàn
tin tưởng Lê Văn Duyệt, vua Minh Mạng xem Quan Đại thần nghi ngờ ngay từ đầu,
có lẽ vì người ta đồn rằng Lê Văn Duyệt khuyên Gia Long không nên chọn người kế
vị, cũng vì cha vợ của Minh Mạng, Huỳnh Công Lý, đã bị Lê Văn Duyệt chém đầu vì
tội. một hành vi sai trái bị cáo buộc, bất kể chỉ dụ của Hoàng đế từ Huế.
Sau sự việc này, Minh Mạng đã xem xét
mức độ quyền lực của Lê Văn Duyệt với sự cảnh giác ngày càng tăng, đặc biệt là
khi Phó vương quyết định củng cố Thành Quy hơn nữa bằng cách xây dựng các bức
tường bao vây cao hơn. Đó là một hành động được Minh Mạng coi là chuẩn bị cho
cuộc nổi dậy. Ông quyết định phá vỡ sự kiểm soát vững chắc của Lê Văn Duyệt ở
phía nam bằng cách thay đổi một số thuộc cấp của Lê Văn Duyệt, hoặc các thành
viên trong gia đình, đã mất các chức vụ trong cuộc thanh trừng này, được thay
thế bằng chính người của Minh Mạng. Trong số những người bị mất chức có Lê Văn
Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, người đã bị bỏ tù vì một tội danh chưa được
nêu rõ. Thành Quy được đổi tên thành Phiên An. Vùng đất dưới sự cai quản của Gia
Định Thành được chia thành 6 đơn vị hành chánh nhỏ hơn gọi là tỉnh. Từ đó về
sau, Gia Định cũ thường được gọi là Lục Tỉnh (sáu tỉnh), ba phủ trên phía đông
và ba phía tây.
Năm 1833, sau khi Lê Văn Duyệt qua đời,
Lê Văn Khôi nổi dậy, cố thủ tại thành Phiên An ngày nay và cố gắng thành lập
Gia Định thành một khu tự trị. Ông tự xưng là Đại chỉ huy, và tổ chức triều
đình như thể chính ông là một vị vua. Khi một đội quân và thủy quân hùng hậu được
điều động từ Huế để vây hãm Kinh thành, Lê Văn Khôi đã tranh thủ sự giúp đỡ của
Xiêm. Các lực lượng từ Huế phải mất gần 3 năm mới đánh đuổi được quân Xiêm và
chiếm được thành, trong khi đó Lê Văn Khôi chết trong cuộc vây hãm. Thành đã bị
san bằng vào năm 1835 và gần hai ngàn người đã bị bắt và bị giết. Mã của Lê Văn
Duyệt bị phá hủy, được xiềng bằng dây xích và khóa, như thể hài cốt của ông
đang ở trong tù. Năm 1848, vua Tự Đức ân xá cho Lê Văn Duyệt và truy tặng ông
là Vọng các công thần, Chưởng Tả quân Bình Tây Tướng quân Quận Công, mã ông được
tháo xiềng và xây dựng lại. Ngày nay, ngôi mã vẫn được cư dân địa phương tôn
kính như một địa điểm thờ cúng mà những người dân Sài Gòn phải đến viếng trong
dịp lễ Tết năm mới.
Năm 1836 một thành khác được xây dựng
như một pháo đài mới canh giữ phía nam và được đặt tên là Thành Phụng, gần và ở
phía đông bắc của Thành Quy cũ. Thành Phụng được xây dựng như một công trình kiến
trúc khiêm tốn hơn, hình vuông, trên một khu vực nằm cạnh các đường Nguyễn Đình
Chiểu, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đĩnh Chi ngày nay và Nguyễn Du. Được bảo vệ bởi bốn
tháp pháo ở các góc của nó, chu vi của Thành cổ Phụng chỉ dưới 2 km, các bức tường
cao như thành cũ nhưng chỉ có 4 cổng và được bao quanh bởi những hào lớn. Thành
này còn được gọi là thành Gia Định và sau này là thành Sài Gòn.
Đó là bức tranh của Sài Gòn khi hải
quân Pháp đến vào tháng 2 năm 1859, như một nhánh của chiến dịch quân sự của lực
lượng hải quân Pháp - Tây Ban Nha ở xa hơn về phía bắc. Dưới sự chỉ huy của Phó
đô đốc Rigault de Genouilly, một hạm đội 12 chiếc đã đến Đà Nẵng vào tháng 9 - 10
năm 1858 với ý định chiếm Huế, thủ đô của Việt Nam vào thời điểm đó, nhưng họ vẫn
không thể đến Huế vào cuối năm. Cuộc cách mạng quần chúng mà họ được các nhà
truyền giáo hứa hẹn đã không thành hiện thực. Bị ảnh hưởng bởi những căn bệnh
như kiết lỵ và dịch tả, trong khi gặp phải sự kháng cự mạnh mẽ của quân Việt
Nam, phần lớn hạm đội đã rời Đà Nẵng và tiến về phương Nam vào tháng 1 năm
1859. Mục tiêu đầu tiên của họ là Thành Phụng.
Sự dễ dàng đi lại từ Biển Đông đến
Sài Gòn giờ đây đã trở thành một vũ khí sát thương chống lại sự sống còn thành
phố. Tiếp theo cuộc hành trình mà nhiều tàu buôn đã thực hiện trước đó, Hạm đội
Pháp ngược sông Sài Gòn đến khu vực phía trước Thành Phụng. Từ vị trí thuận lợi
này, họ tung ra một loạt pháo kích nặng nề chống lại quân phòng thủ, trước khi
phát động một cuộc tấn công mặt đất. Thành không chống nỗi vào ngày 17 tháng 2
năm 1859. Chỉ huy quân sự Võ Duy Ninh tự sát.
Phó đô đốc de Genouilly tiến vào
thành, ra lệnh kiểm kê và biến nó thành trụ sở của chính mình. Tuy nhiên, trận
chiến giành thành trì vẫn chưa kết thúc. Theo lệnh của vua Tự Đức lúc bấy giờ,
quân tăng viện từ đồng bằng sông Cửu Long được triệu tập nhưng họ không thể chiếm
lại thành dưới sự pháo kích dữ dội của tàu Pháp. Sau đó, quân Việt Nam sử dụng
chiến thuật du kích, chiến thuật có lợi đến mức phó đô đốc quyết định rút lui một
phần và phá hủy pháo đài. Vào ngày 8 tháng 3 năm 1859 quân Pháp đã đặt chất nổ
trên khắp thành, các vụ nổ sau đó đốt cháy mọi thứ bên trong. Khi ngọn lửa dịu
đi, quân Pháp đã phá hủy một kho vũ khí lớn với hơn 200 khẩu đại bác, 20.000 khẩu
súng ống, súng lục và kiếm, 100 tấn đạn dược các loại và 80.000 tấn gạo, một số
lượng khổng lồ đủ để nuôi sống tất cả cư dân và binh lính trong ít nhất một
năm.
Khi hạm đội chánh của Pháp tiến lên
phía bắc để tái tham chiến ở Trung Hoa, họ để lại ở Sài Gòn một đơn vị nhỏ, chỉ
800 người, được hỗ trợ bởi 6 tàu lớn nhỏ khác nhau để kiểm soát khu vực. Giao
tranh tiếp tục giữa người Việt Nam và đơn vị này. Quân Việt sau đó đã đóng quân
trong một đồn gọi là Kỳ - Hoà (ngày nay là Chí Hoà), phía sau một tuyến phòng
thủ vững chắc dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương. Không lâu sau khi lực lượng
hải quân chánh của Pháp quay trở lại, sau một cuộc ngừng bắn của Pháp -Trung
vào tháng 10 năm 1860. Hạm đội Pháp dưới sự chỉ huy của Đô đốc Léonard Charner
trở lại Sài Gòn vào tháng 2 năm 1861, đánh chiếm đồn Kỳ - Hoà, phòng thủ cuối
cùng của Sài Gòn tan rã và Charner tuyên bố chiến thắng.
Hai tháng sau khi chiếm Sài Gòn, Đô đốc
Charner ký sắc lệnh ngày 11 tháng 4 năm 1861 quy định các giới hạn của Thành phố
Sài Gòn (Ville de Saigon), bao gồm cả Sài Gòn (ngày nay là Chợ Lớn) và Bến
Nghé. Các giới hạn này sau đó đã được sửa đổi vào tháng 10 năm 1865 dưới thời
Đô đốc Roze, người ra quyết định rằng Thành phố Sài Gòn chỉ bao gồm khu vực Bến
Nghé cũ, một vùng đất chỉ 3 km2 nằm trong Quận 1 ngày nay. Khu vực trước đây được
gọi là Sài Gòn được tách ra thành Chợ.
Đến tháng 3 năm 1862, bốn trong số sáu tỉnh của Nam Việt Nam đã rơi vào tay quân Pháp. Một Hiệp ước đã được đàm phán và thống nhất giữa triều đình Huế và Đô đốc Pháp. Thượng thư Phan Thanh Giản tại Sài Gòn đã ký với Đô đốc Bonard, người thay thế Charner lúc bấy giờ. Theo Hiệp ước Sài Gòn, tháng 6 năm 1862, Việt Nam nhượng cho Pháp 3 tỉnh miền Đông, bao trọn Sài Gòn. Các tỉnh được đặt dưới sự kiểm soát của Bộ Hải quân Pháp với tư cách là bộ phận đầu tiên của lãnh thổ hải ngoại của Pháp ở Việt Nam, và một phần của tô giới sau này được gọi là Nam Kỳ thuộc Pháp.
Khi những quan chức Pháp đầu tiên và
những người định cư đến Sài Gòn, họ đã kinh hãi trước vị trí địa lý đặc biệt của
thành phố, thậm chí có người còn nhận xét rằng nó không giống bất kỳ thành phố
nào mà họ biết, những người khác thì ngơ ngác hỏi: 'Thành phố ở đâu?' Khi tàu của
họ vào Sài Gòn. Theo tiêu chuẩn châu Âu, Sài Gòn lúc đó giống một ngôi làng tồi
tàn hơn là cảng thương mại nhộn nhịp. Mạng lưới sông ngòi và kênh rạch dày đặc,
kiểu nhà ở khép kín đi kèm và sự hiện diện của hàng ngàn chiếc thuyền nhỏ đi
trên mê cung nước đã tạo ấn tượng kỳ lạ đối với những người chưa quen biết.
Thành phố thưa thớt dân cư vì nhiều người đã chạy đi để thoát khỏi cuộc giao
tranh của những năm trước. Sự phân tán của phần lớn dân cư khiến nhiều con kênh
không được chăm sóc và không được nâng cấp. Một số đã bồi lấp một nửa trong thời
gian xen kẽ, biến nhiều tuyến đường thủy trước đây thành những con mương hôi thối
và lầy lội.
Một trong những hành động đầu tiên của
chánh quyền Pháp khi đó là làm cho thành phố có thể sinh sống được, nhiệm vụ cấp
bách nhất là khôi phục hệ thống giao thông, nghĩa là làm sạch các kênh đào. Quy
hoạch đô thị được giao cho một kỹ sư quân sự, Đại tá Coffyn, người có những ý
tưởng lớn về một thành phố Sài Gòn trong tương lai. Theo kế hoạch của ông,
thành phố mới sẽ bao gồm một khu vực rộng lớn được bao bọc bởi ba mặt là sông
Sài Gòn, kênh Thị Nghè về phía bắc và kênh Bến Nghé mà người Pháp gọi là Kênh
Chợ Lớn về phía Nam. Để hoàn thiện bức tranh, ông đề xuất đào một con kênh mới ở
phía tây, nối rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé. Con kênh mới này sẽ nối tất cả
các tuyến đường thủy xung quanh Sài Gòn, biến nó thành một hòn đảo. Chu vi mặt
nước của thành phố mới sẽ là 20 km và nó có thể chứa khoảng nửa triệu người.
Việc xây dựng con kênh mới bắt đầu
vào năm 1862, theo lệnh của Đô đốc Bonard và nó được gọi là Canal de Ceinture
(Kênh Vành đai). 40.000 người đã được đưa vào công việc, nhưng dự án đã sớm bị
bỏ dở. Trong khi đó, một số kênh mới, nhỏ hơn, được tạo ra để nối sông Sài Gòn
với kênh hiện có nhằm khơi thông bùn và cũng để lấy nước chảy trở lại phục vụ
tưới tiêu và giao thông. Hai con kênh mới đã được đào sau đó để tạo điều kiện
cho luồng giao thông từ Đồng bằng sông Cửu Long đến Chợ Lớn, một là kênh
Duperré, được đào vào năm 1877, và kênh chị em của nó, kênh Mirador, được đào
hai năm sau đó để nối Duperré với Chợ Lớn. Một con kênh lớn đã được tạo ra sau
đó, vào năm 1906 - 1908, chạy song song với kênh chính Bến Nghé và được đặt tên
là Canal de Doublement trong tiếng Pháp, Kênh Đôi trong tiếng Việt. Giữa con
kênh mới này và Bến Nghé, những con kênh nhỏ hơn đã được đào để nối hai con
kênh. Vận tải kênh đào, như vậy, vẫn là phương pháp được ưa chuộng trong những
thập kỷ đầu tiên dưới thời Pháp.
Cùng với việc khơi thông, nạo vét và
xây mới các tuyến đường thủy, một tuyến đường, chương trình đã được thực hiện một
cách nghiêm túc. Vào thời điểm đó, một số con đường thô sơ đã được tạo ra dưới
thời Gia Long, và một số con đường nhỏ đã được các kỹ sư quân sự Pháp xây dựng
ngay khi người Pháp bắt đầu chiếm đóng vào năm 1859, tuy nhiên, giao thông đường
bộ vẫn còn rất ít. Để đi từ A đến B bằng đường bộ, đó là một việc phức tạp và
phương tiện giới hạn. Phương pháp phổ biến nhất là đi bộ, đối với đường dài là
bằng võng do người khuân vác, ngựa hoặc xe bò chở. Nó mất thời gian và tiền thuế
của khách du lịch. Tổng cộng có 26 con đường ở Sài Gòn trên tổng quãng đường khoảng
15 km vào năm 1865, mỗi đường được đánh dấu bằng một con số, thay vì một cái
tên. Mặt đường được bao phủ bởi đá ong hoặc đá dăm xanh. Một trong những con đường
cổ nhất của Sài Gòn ngày nay là Đồng Khởi, ban đầu được tạo ra dưới thời Gia
Long để làm con đường chánh cho Hoàng đi từ Thành Quy đến nhà tắm của mình, được
xây dựng trên một chiếc bè tre bắc trên sông Sài Gòn. Đó là một con đường nhỏ tồi
tàn theo tiêu chuẩn châu Âu, ngập nước nhiều chỗ, rợp bóng cây cau và những
ngôi nhà tranh. Nó được đánh số 16 trong thời kỳ đầu Pháp thuộc.
Năm 1865, chu vi của Thành phố Sài Gòn được vẽ lại dưới thời Đô đốc Roze để chỉ còn lại một khu vực hình vuông nhỏ có diện tích 3km2, nơi mà Thành Phụng đã từng hiện diện. Sài Gòn trở thành khu phố hành chánh trong khi Chợ Lớn tồn tại như một khu phố chợ riêng biệt. Những ngôi nhà bán hoàn công vẫn còn thịnh hành ở đây nhưng những ngôi nhà tốt hơn cũng đã tồn tại, làm bằng gỗ nguyên khối và được lợp bằng mái ngói. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn là một vùng rừng rậm và đầm lầy dân cư thưa thớt, nơi thú dữ như hổ lang thang. Các con đường ở Sài Gòn bây giờ được đổi tên theo lệnh của Đô đốc de La Grandière, sử dụng tên tiếng Pháp chứ không phải số, chẳng hạn như đường Lefèbre, trước là đường N. 1, đường Bonard, trước là N. 13, v.v ... Đường 16 nay trở thành đường de Catinat, theo tên của một trong những con tàu tham gia đánh chiếm Sài Gòn năm 1859.
Việc tổ chức Nam Kỳ đã bắt đầu ngay cả
trước khi Hiệp ước 1862 được ký kết. Thống đốc Nam Kỳ đầu tiên, Đô đốc Bonard,
ngay lập tức thành lập một chính quyền theo đường lối của hệ thống Anh ở Ấn Độ,
và Hà Lan ở Java, bằng cách sử dụng các quan chức địa phương làm việc. dưới sự
chỉ đạo của nhà cầm quyền Pháp. Các loại thuế mới đã được áp dụng đối với thuốc
phiện, muối, rượu và nhiều mặt hàng nhập khẩu. Chính quyền Pháp ở Sài Gòn cũng
chịu trách nhiệm phát hành giấy phép cho các nhà máy mới. Một trong những công
ty Pháp đầu tiên thành lập cửa hàng ở Sài Gòn là Denis Frères, người đã đến vào
năm 1863 để chiếm một dãy phố Đồng Khởi ngày nay.
Việc quản lý các tỉnh miền Đông đã được thực hiện tốt vào thời điểm 3 tỉnh miền Tây được thực hiện vào năm 1867. "Chỉ mất 5 ngày để bổ nhiệm tất cả các chức vụ hành chính". Kể từ năm đó, toàn bộ miền Nam Việt Nam, Lục Tỉnh cũ, được gọi là Nam Kỳ và nằm trong tay các sĩ quan hải quân Pháp kế tiếp, biến thời kỳ này thành một thời gian được gọi bằng tiếng Pháp là gouvernement des amiraux, cho đến năm 1879 khi một thống đốc dân sự, Charles Le Myre de Vilers, được bổ nhiệm, sau khi thành lập một trường đào tạo các quan chức dân sự cho lãnh thổ này.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét