Đời sống kinh tế và xã hội ở Saigon
1930-1945
Nguyễn Đức Hiệp
Bài này
có mục đích phác họa vài nét trong một số khía cạnh về tình hình đời sống kinh
tế và xã hội ở Saigon nói riêng và Nam Kỳ nói chung trong thời gian 15 năm từ
1930 đến 1945. Đời sống kinh tế, xã hội có liên quan mật thiết đến chính trị và
vai trò của công dân trong một xã hội. Giai đoạn này cũng là giai đoạn báo chí
đi vào lãnh vực chính trị và nhiều người Việt Nam tích cực tham dự vào các
tranh luận trên báo chí và bầu cử Hội đồng quản hạt và Hội đồng thành phố. Vì
đây là lãnh vực rộng lớn so với khuôn khổ của một bài viết, chúng tôi chỉ đề
cập đến đời sống kinh tế và xã hội. Bài viết về đời sống chính trị sẽ được
trình bày trong một bài khác.
Đời sống kinh tế
Đầu thập
niên 1930 do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, ở Nam Kỳ tình trạng thất
nghiệp rất đáng lo ngại. Kinh tế đình trệ, hàng hóa ứ đọng do nhu cầu giảm sút
mạnh và vì thế công ăn việc làm trở nên khó khăn.
Báo
Saigon (18/2/1936) có viết về các học sinh học nghề ở trường Bá nghệ (kỹ thuật
Cao Thắng), Saigon, khi ra trường rất khó kiếm việc do các công xưởng (như
xưởng Ba Son nơi thường tuyển dụng học sinh trường Bá nghệ) không còn nhu cầu
mướn người.
Tranh
xã-hội
Đó
cũng là phương-pháp trừ nạn thất nghiệp !
Ai
có lòng nhân-đạo, muốn tìm phương-pháp thích dụng để trừ nạn thất-nghiệp thì cứ
ráng lo sáng kiến đi. Nhưng còn mấy ông Cai-trường, thì Như-Hoa xin can dứt.
Nói
đường đột thế, không phải Như-Hoa dám cho mấy ông bất tài đâu. Không, không,
chỉ vì bởi có câu chuyện mới xảy ra ở trường Bá-nghệ đây, nên Như-Hoa mới sợ
mấy ông đua nhau lãnh trách-nhiệm đó quá.
Số
là hôm đi quan-sát các trường ở địa-phương Saigon-Cholon, khi tới viếng trường
Bá-nghệ, quan Thống-đốc thấy mỗi năm công-nho hao tốn cho cái trường nầy hết
36.000 đồng, mà số học-sanh tốt-nghiệp rất hiếm hoi, nên ngài có để lời
trách-cứ ông Cai-trường ấy là ông Eteimbled.
Lanh
trí làm sao, khi thấy quan Thống-đốc lộ vẻ bất mãn, ông Etiembled không để mất
thời-giờ và cơ-hội, bèn đem phương-pháp mình ra mà giới-thiệu một cách khôn
khéo như vầy:
Trước
kia, khi ra trường thì học-sanh được sở Ba-son thâu-dùng, còn bây giờ ra trường
thì học-sanh phải thất-nghiệp, nên… nên tôi không muốn đào-tạo nhiều học-sanh.
Câu
nói của ông Etiembled vắn tắt như thế, song nó có cái nghĩa rất kín đáo rằng:
Vì
học-sanh ra trường phải thất-nghiệp, nên tôi không cần dạy chúng nó làm chi.
Không cần dạy la` có ý để cho chúng nó khỏi ra trường, để trừ bớt nạn
thất-nghiệp; chớ nào phải tôi không có tài đào-tạo học-sanh đâu ?
Giỏi
thiệt cái ông Etiembled nầy.
Tốt
thật cái ông Etiembled nầy.
Như-Hoa
khen ông, là khen ở cái tài lanh trí của ông. Như-Hoa khen ông, là khen ở cái
lòng thương người của ông. Chớ còn về cái phương-pháp trừ nạn thất-nghiệp của
ông đó, thì Như-Hoa xin… xin ông hãy đem bỏ vô chai ắt-xít cho tiêu ra nước
rảnh.
Đều
nói mà nghe chơi, chớ như nếu hết thảy các ông Cai-trường khác ai cũng bắt
chước theo phương-pháp của ông Etiembled, thì Nhu-Hoa dám chắc rằng rồi đây mấy
cậu học-sanh ở ta, cứ cặp sách đi, cặp sách về, năm cũ qua, năm mới hết, đầu sẽ
bạc trắng như đống tuyết, lưng sẽ cong vòng như cây cung, mà học-sanh cũng hoàn
là học-sanh vậy.
Như-Hoa
Ngay cả
những người Pháp cũng bị sa thải và thất nghiệp, một số phải về Pháp còn lại
sống khổ cực ở Đông Dương. Tờ Phụ Nữ Tân Văn số ngày 9/7/1931 có nói về tình
trạng của người Việt và Pháp trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế như sau :
Kinh
tế khủng hoảng : Người mất sở, kẻ sụt lương
Cái
ảnh-hưởng của nạn kinh-tế thật là nặng nề khốn khổ cho người ta quá. Mấy tháng
nay chẳng những anh em lao-động ta, bị sụt lương mất sở rất nhiêu, mà thậm chí
cho đến người Tây là hạng làm mướn sang trọng, cũng không thiếu chi người chung
chịu một số kiếp ấy.
Từ
hồi đầu năm đến giờ, có nhiều người Tây làm việc ở các sở cao-su, các hãng buôn
bán ở Cao-mên và Nam-kỳ, bị đuổi, hay đã mãn giao-kèo, hãng không dùng nữa,
phải dắt vợ bồng con về Tây nhiều lắm.
Nội tháng Mai (a) mới rồi, các hãng buôn ở Saigon, đã đuổi hết 63 người Tây làm
công, còn những người còn ở lại làm việc thì đều bị sụt từ 10 đến 20% cả. Tình
cảnh của họ thật là nguy ngập vô cùng.
Một doanh nhân người Pháp, ông Pierret, chủ một doanh nghiệp và một đồn
điền cao su lớn ở Tây Ninh, bị xiết nợ phát mãi cơ sở đồn điền cao su, sau khi
đưa vợ con lên Đà Lạt nghĩ đã trở về đồn điền uống thuốc độc tự tử chết sau khi
nói với cập rằng coi vườn cao su là ông rất buồn và hãy làm việc tử tế với
người chủ mới sắp đến (PNTV 6/8/1931).
Tình
trạng khổ cực cũng giáng xuống người Tàu ở Chợ Lớn. Ngày trước họ bỏ xứ Tàu đến
Nam Kỳ làm ăn sinh sống. Thường thì họ thành công trên thương trường hay làm ăn
xoay sở rất giỏi trong cuộc sống, Nay cũng phải chịu cảnh khổ cực trong thời kỳ
kinh tế khủng hoảng. Có nhiều người tìm cách trở về nước họ. Một số người Tàu
trong số này vì không có tiền phí mua vé đi về Trung quốc nên đã phải chui
xuống gầm tàu để lén về. Tờ PNTV ngày 2/7/1931 đã tường thuật một trường hợp bi
đát của họ :
Hết
thế làm ăn, dắt nhau trốn về Tàu cả đám !
Trong
hồi kinh-tế khuẩn-bách nầy, tiệm buôn người Tàu đóng cửa rất nhiều, bởi vậy bọn
lao-động Huê-kiều thất nghiệp, đói khát, không biết bao nhiêu mà kể.
Ở
đây không bà con quen lớn với ai, không cơm ăn nhà ở thì chịu sao cho nổi? Họ
phải tính trở về Tàu, nhưng tiền đâu mà làm lộ phí?
Mới
rồi, tàu Bornéo ở Saigon lấy neo chạy về Hương-cảng, lúc tàu ra khơi, có một
người thợ máy tìm thấy có 40 người Tàu trốn dưới hầm, mà người nào cũng bị ngột
ngấc ngư hết thảy. Biết là tụi đi tàu lậu, anh thợ máy bèn lùa họ ra khỏi hầm,
trong dây lát có 1 người chết!
Tra
xét ra thì bọn nầy là khách-trú ở Nam-kỳ, đói khát, trốn về Tàu, bởi không có
tiền nên mới trốn dưới hầm như thế. Nghĩ cũng đáng thương !
Theo báo
Hoa-Tự ở Hương-Cảng (Hồng Kông) thì từ đầu năm 1931 cho tới tháng 7 năm 1931,
đã có đến 1.400 người Tàu từ Nam Kỳ vì đói khát, không tiền đóng thuế-thân nên
về xứ. Các năm trước, các chuyến tàu nào từ Trung Quốc qua Nam Kỳ đều có một số
người Tàu qua làm ăn. Nhưng năm nay họ phải trở về, chứng tỏ tình hình sinh
sống ở Nam Kỳ rất khó khăn trong năm 1931 (PNTV 23/7/1931).
Tờ Đông
Dương, Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (L'Indochine, revue économique
d'Extrême-Orient) ngày 5/10/1931 cho biết trong 3 năm (1929-1931) xảy ra nhiều
sự phá sản của những người Tàu ở Nam Kỳ, làm cho các công ty Pháp mất 150 triệu
francs vì không thu được nợ. Các công ty Pháp sau khi nhập và bán hàng cho
người Tàu thường cho họ tín dụng trước, rồi sau đó trong vòng có khi đến 18
tháng, khi bán được hàng họ sẽ trả lại tiền. Khủng hoảng kinh tế làm người Tàu
phá sản kéo theo các công ty Pháp bị nợ nần.
Khắp Nam
Kỳ nhiều cơ sở thương mại bị phá sản. Chỉ trong vòng năm tháng đầu năm 1931,
tòa án thương mại (Tribunal de commerce) cho biết đã có 57 vụ kiện phát mãi và
khánh-tận tính ra số tiền lên tới 6 triệu đồng, trong khi cả năm ngoái chỉ có
43 vụ với số bạc có 2 triệu đồng thôi. Như vậy năm 1931 số nhà buôn bị khánh
tận bằng ba năm ngoái (PNTV, 2/7/1931). Ở Chợ Lớn sự hung thịnh là từ lúa gạo
vì nơi đây là kho lúa của Nam Kỳ, nhưng vì “bán lúa không được” nên các tiệm
buôn sập ngã liền liền. Khi trước thì rất thịnh vương, nay trong một dãy phố,
cứ cách vài ba căn, là có một căn bị đóng cửa cho thấy tình trạng bi đát ở Chợ
Lớn. Hảng tàu Yeng-Seng có tiếng của người Tàu tên Quách Chiêu cũng bị khánh
tận, vốn của ông có 900.000$ mà số nợ thiếu là 700.000$, không trả được nên ông
phải xin tòa khánh tận (PNTV 2/7/1931).
Nhà máy
xay sát lúa Nam Thuận An lớn nhất của người Việt làm chủ, ông Nguyễn Chiêu
Thông, ở Chợ Lớn góc quai Bonard và rue Palikao (bến Bãi Sậy và đường Ngô Nhân
Tịnh ngày nay) vì ảnh hưởng của nạn kinh tế khủng hoảng bắt buộc ông Thông phải
đóng cửa nhà máy, mất bao công sức xây dựng, phải ra tòa xin phá sản, mặc dầu
vốn nhà máy đến 730.000$ và ông chỉ nợ 500.000$ nhưng không chịu nổi nợ đòi vì
nguồn vào không còn. Tờ PNTV (30/7/1931) cho biết ông Thông không những là một
doanh nhân giỏi làm ăn, mà còn là người hảo tâm làm nhiều việc thiện, cho nên
khi biết ông bị khánh tận nhiều người đã buồn cho ông và nhất là buồn vì trên
thương trường đã mất đi một nhà máy lớn lao xứng đáng của người Việt. Tỡ PNTV
ước ao là chính phủ lâu nay giúp đỡ nghề nông công thương của người Việt hãy
cứu đỡ cho ông Thông. Chính phủ thật sự không thể cứu đỡ doanh nghiệp này mặc
dầu ông Thông là hội viên của hội đồng thành phố Saigon và doanh nghiệp ông
thuộc loại lớn vì có rất nhiều doanh nghiệp bị phá sản do kinh tế khủng hoảng
toàn diện nên không thể chọn doanh nghiệp nào để cứu.
Hầu hết
các công ty, doanh nghiệp đều có vay tín dụng để hoạt động, vì thế công ty nào
vay nhiều vào lúc chủ nợ đòi thì sẽ gặp khó khăn đi đến phá sản khi họ không
còn nguồn thu từ khách hàng. Trường hợp một người Ấn, ông Candassamy, có cửa
hàng mượn và cho vay tiền ở góc đường Catinat và quảng trường Francis Garnier
(đường Đồng Khởi và quảng trường Nhà Hát) từ 38 năm kinh doanh, ông không bao
giờ thất tín. Giữa năm 1931, ông gần như bị phá sản, khánh tận, bị tòa tịch
biên tài sản vào năm 1931 khi những người cho ông vay đòi tiền lại trong lúc
tình trạng đang ngặt nghèo vì những người mượn tiền ông thì không thể trả được.
Sự kiện
ông Candassamy phải bỏ trốn đi Nam Vang đã gây xôn xao dư luận Saigon. Báo chí
Pháp và Việt (Indochine 5/10/1931, PNTV 6/8/1931) đã đăng tình trạng sụp đổ
kinh doanh của ông Candassamy.Từ nhiều năm qia, ông Candassamy là người thật
thà uy tín trong kinh doanh mượn và cho vay tiền, rất nhiều người Âu, nhất là
các công chức, tin tưởng đã đưa tiền tiết kiệm của họ cho Candassamy mượn với
lãi suất 12% mỗi năm. Ông Candassamy dùng tiền này để cho những người Pháp và
Việt mượn với lãi suất từ 24 đến 30%.
Vì thế
những người ở Saigon cho Candassamy mượn tiền rất hoảng sợ khi biết được
Candassamy đã bỏ trốn ngày 15/7/1931 với số nợ lên đến 300.000$. Ngày hôm đó
ông Lebon, người cho ông Candassamy mượn 800$ đã lấy được giấy lệnh phá sản,
ông Faucon được giao trách nhiệm kê khai và phát mãi tài sản và một trát bắt
ông Candassamy được ban hành. Hai ngày sau đó, người ta mới biết được sự thật:
ông Candassamy là nạn nhân của một trong các đối thủ cạnh tranh với ông. Người
này phát tán ra tin đồn là ông Candassay không thể giải quyết được khó khăn của
cơ sở kinh doanh mượn và cho vay tiền của ông. Và vì thế mọi người đến để rút
hết tiền họ cho mượn ra. Trong vòng 6 ngày, ông Candassamy đã hoàn trả được 500.00$
kể cả tiền lãi. Đây là số tiền khổng lồ, nhất là hiện nay ở Nam Kỳ đang rất
thiếu và khan hiếm tiền mặt. Vào ngày 11 tháng 7, một công chức có cho
Candassamy mượn tiền đến rút 20.000$ ra, ông Candassamy nói cần 2 ngày ông mới
có để trả, nhưng người này không chịu, rút súng ra và đe dọa giết ông
Candassamy nếu không trả ngay lập tức. Một tiếng đồng hồ sau, ông Candassamy
trở lại với 17.000$, ông công chức nọ nhận số tiền đó rồi nói ngày mai ông ta
sẽ trở lại lấy số còn lại. Ngày mai là chủ nhật, ông Candassamy biết là ông
không thể tìm ra 3000$ tiền thiếu, và ông sợ sẽ bị bắn nên ông bỏ trốn qua Nam
Vang và trình diện ngay sau đó với cảnh sát ở đó và được sự trợ giúp từ hai nhà
cho vay giàu nhất ở Nam Vang.
Khi hay
tin có trát tìm bắt mình, ông Candassamy liền viết thơ cho quan Biện lý nói là
ông không có ý trốn nợ vì số tiền thiên hạ thiếu nhiều hơn số tiền ông thiếu,
mà chỉ vì sợ “con chó lửa” (súng) của một người Tây nóng tính mà thôi. Nếu
những người ấy chịu trì hoãn kỳ hạn trả tiền cho ông thì ông sẽ trở về tính
toán cho xong vào đấy (PNTV 6/8/1931). Một ủy ban của các chủ nợ được lập ra
đồng ý với lời yêu cầu của ông Candassamy và nhờ ông Lebon rút lại đơn xin phá
sản và tòa ngày 22/7/1931 rút lại cái án tịch biên phát mãi sản nghiệp ngày
15/7 vì phá sản. Trong phiên tòa này có sự hiện diện của ông Candassamy và tất
cả chủ nợ đều vui mừng chào đón ông trở lại (Indochine 5/10/1931). Ủy ban tính
rằng số tiền nợ là 600.000$ và tài sản của ông Candassamy là 643.000. Ông
Candassamy đề nghị là bắt đầu từ năm 1932, ông trả 25.000$ mỗi quí (3 tháng),
không có thêm hợp đồng mượn tiền nữa và đặt dưới sự quản lý của ủy ban.
Trước đó,
vào ngày 16/7/1931, những người Ấn xá-trị (chettys), thuộc giai cấp chuyên cho
vay mượn thường là giá cắt cổ, đã đăng lên các tờ báo ý kiến của họ về vụ ông
Candassamy như sau (19) :
Những
người xá-trị cho vay tiền, đã lo lắng rất chính đáng về những tin đồn, từ vài
ngày qua, phát tán trong thành phố, nay trân trọng thông báo với công chúng là
họ không có dính dáng hay có điểm nào chung với ông Candassamy, hiện đang bị
khánh tận.
Ông
Candassamy, từ vùng Ấn thuộc Pháp, không phải là người cho vay mượn thuộc giai
cấp xá trị (Chettys)
Để
có nhu cầu kinh doanh của mình, ông ta đã mượn tiền từ những người xá-trị cho
vay, những người này vẫn còn giữ các khoản nợ lớn của ông Candassamy. Chúng ta
hãy cẩn thận để không nhầm lẫn giữa những người xá-trị cho vay với những người
Ấn Độ khác đang tham gia vào hoạt động kinh doanh cho vay tiền. Bất kỳ sự nhầm
lẫn nào về phương diện này sẽ rất dễ, trong thời điểm hiện tại, gây ra những
hậu quả tai hại.
Saigon,
ngày 16/7/1931
Để
thông báo
Thư
ký Hội người Nattukottai Chettiars ở Đông Dương
Điều này
cho thấy những người xá-trị (Chettys) muốn hại và làm cho không ngóc đầu lên
lại được người đồng nghiệp cạnh tranh với họ, ông Candassamy một người không
thuộc giai cấp Nattukottai Chettiars của họ. Tờ Indochine binh vực ông
Candassamy cho rằng thông báo này nói vì ông Candassamy là công dân Pháp gốc Ấn
nên có phải vì thế mà được coi là không có giỏi và thật tình như những người
giai cấp xá-trị từ thuộc địa của Anh không? Báo cũng bình luận rằng tòa án ở
Đông Dương quá mau lẹ làm phá sản nhiều người và công lý ở thuộc địa là ngoại
lệ.
Để có thể
giúp người thất nghiệp tìm việc làm, các thành phố có “Văn phòng chỗ chỉ làm”
(Bureau de placement) để làm môi giới với các chủ hãng, giới thiệu việc làm cho
người tìm việc. Như ở Chợ Lớn, báo Saigon 24/4/1937 cho biết như sau
Châu
thành Cholon
Lời
ra cần kíp
Cho
nhơn dân trong thành phố Cholon hay rằng một “Văn phòng chỉ chỗ làm” (Bureau de
placement) sẽ mở ra kể từ ngày 21 Avril 1937 tại Xã-Tây Cholon đặng tiện bề cho
người thất nghiệp kiếm chỗ làm.
Người
nào, cư ngụ tại Cholon bất luận đàn ông hay đàn bà, người Nam hay người Khách,
nếu muốn kiếm công việc làm, hay là những chủ hãng, người tư gia, muốn kiếm
người làm công thiện nghệ hay là không thiện nghệ, thì xin mời đến Văn phòng
chỉ chỗ làm tại Xã-tây Cholon mà hỏi thăm, những điều cần ích sẽ chỉ rõ cho.
Quan
Đốc-lý Thành-phố
Cholon,
MAZET
Cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 đã làm trì trệ kinh tế khắp nơi và vì thế ảnh
hưởng đến ngân sách thành phố Saigon. Báo PNTV 25/6/1931 cho biết công nho
(ngân sách) thành phố Saigon năm 1931 thiếu hụt dến năm sáu chục vạn đồng vì
thế ủy viên hội đồng thành phố đã tìm đủ cách để bù đắp vào sự thiếu hụt như
bớt người làm việc, bớt tiền chi phí, v.v.. nhưng không thấm vào đâu. Ngày 8
tháng 6 1931, Ủy ban tài chánh định lại bắt đầu từ ngày này giá nước cung cấp
sẽ tăng lên 2 xu lên thành 7 xu một mét khối nược bằng với giá trong Chợ Lớn.
ước lượng sẽ tăng vô sổ công nho hơn 100 ngàn đồng
Một sự
thay đổi của chính phủ mặt trận bình dân Léon Blum khi lên cầm quyền vào tháng
6 năm 1936 có ý nghĩa đối với người Việt Saigon, đó là ngày 1 tháng 5 là ngày
lễ lao động được chính thức áp dụng ở Pháp và trên các thuộc địa. Ngày này là
ngày lễ trong năm, tất cả mọi người đều được nghỉ. Trước đó thì ngày này ai nấy
ở Saigon đều lo sợ ra đường bị cảnh sát dòm ngó hay có thể bị bắt và do đó các
cửa hàng buôn bán ế ẩm. Nhưng đến năm 1937 thì lần đầu tiên ngày 1/5/1937 trở
thành ngày nghỉ lễ chính thức được áp dụng ở Nam Kỳ.
Báo
Saigon 30/4/1937 trong mục “Tranh xã hội” của tác giả Như Hoa có viết về lịch
sử ngày quốc tế lao động và sự thay đổi trong đời sống xã hội ở Saigon trước và
sau khi ngày 1/5 được chính quyền chính thức chấp nhận là ngày nghỉ lễ như sau
Tranh
xã hội
1er
Mai
-
Đừng có nói tới cái ngày "đỏ" ấy mà mang lụy vào mình.
-
Ngày chi mà lại gớm-ghiếc dữ thế
-
Thì ngày 1er Mai đó chớ ngày nào: để Như-Hoa kể sơ lịch sử nó cho bạn đọc nghe chơi:
Nguyên
năm 1889, các đảng xã-hội Pháp nhóm ở Paris một cuộc hội-nghị quốc-tế lao-động
quyết định lấy ngày 1er Mai làm ngày nghỉ của lao-động trên thế-giới, để yêu
cầu nhà cầm quyền các nước giảm giờ làm việc xuống 8 giờ mỗi ngày.
Năm
1919, Tổng-cuộc lao-động Pháp đã đòi được luật 8 giờ cho lao-động Pháp.
Năm
1936 luật tuần-lễ 40 giờ lại ban hành ở Pháp nữa.
Như
vậy lao-động Pháp đã được quá sự yêu-cầu của họ rồi, mà ngày 1er Mai từ năm
1890 tới nay ở khắp thế-giới vẫn là ngày nghỉ của lao-động để tỏ nguyện-vọng
của họ.
Xét
sơ lịch sử của nó, thì ngày 1er Mai đâu có gì là nguy hiểm. Song ở xứ thuộc địa
mà nói đến ngày 1er Mai mấy năm trước thì nhiều người tránh sao khỏi rùng mình
như trẻ em nhắc đến cái tên ông kẹ.
Thật
thế, thường mọi năm, tối gánh hát nào mà hát khai-trương thì đừng hòng thâu
tiền: phần nhiều ai cũng ở nhà dỡn vơi vợ con, ít người chịu ra đường rủi gặp
cái "xe cây C.X" của sở Mật-thám thì khốn !
Đến chị Sáu Lèo đêm ấy cũng phải than van món hàng của chị ế ẩm:
"Cái đêm hôm ấy đêm gì ?" (b).
Đã
có năm vì đề-phòng ngày 1er Mai mà người ta đón khắp các ngả đường "bắt
sua" người quen lạ, có khi mời luôn hành khách về phòng riêng của sở mật
thám nghỉ chơi mấy bữa.
Mấy năm 1932 1933, ngày 1er Mai đã gây ra cuộc lưu huyết ở Vinh (c) và
ở mấy tỉnh Nam kỳ. Nếu trí nhớ của Như-Hoa không lầm thì ở Saigon nầy ngày 1er
Mai đã để lại một vết đỏ ghê-gớm : Viên mật-thám Legrand đã bị giết trong
cuộc biểu-tình ở đường Lazarotte (d).
Vậy
thì gọi nó là "ngày đỏ" cũng không phải là quá đáng.
Song ngày nay thì khác hẳn. Chánh phủ bình dân vừa công nhận ngày 1er
Mai là một ngày kỷ niệm quốc gia. Thế nghĩa là, từ nay ở chánh-quốc cũng như ở
thuộc-địa, người ta sẽ ăn mừng ngày 1er Mai với đủ các cuộc vui như trong những
ngày lễ Jeanne d'Arc hay ngày lễ đình chiến (e).
Vậy
đâu là chơn lý ? "Chơn-lý ở bên nầy dãy núi Pyrennées lại là sự sai lầm ở
bên kia dãy núi"
Trước
kia ngày 1er Mai là ngày chánh-phủ phải coi chừng dân-chúng.
Bây
giờ ngày 1er Mai lại là ngày được chánh phủ công-nhận, và cổ-võ cho dân-chúng
kỷ-niệm nó.
Ở đời
thật không có gì là bền-bỉ là tuyệt-đối hết.
Như-Hoa
Đời sống
của giới lao động và thợ thuyền rất khổ cực nhất là trong thập niên 1930 khi hệ
quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 1929 ảnh hưởng nặng đến nền
kinh tế Nam Kỳ. Đây là giai đoạn mà chính trị Nam Kỳ sôi nổi khi nhóm “ La
Lutte ” (Tranh Đấu) của các ông Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm,
Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai thuộc đệ tứ và đệ tam quốc tế đứng ra tranh đấu
công khai trên mặt trận báo chí và chính trị cho giai cấp công nhân lao động.
Trong
cuộc bầu cử hội đồng thành phố tháng 4 năm 1937, cử tri thành phố đã chọn các
ông Tạ Thu Thâu, Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai đại diện cho họ. Trước cuộc
bầu cử này, chính quyền cũng đã phải có những chính sách an sinh để giúp người
lao động có chỗ ở, xây nhà cho mướn rẻ hay xây các nhà trẻ giúp cha mẹ lao động
mong sao cử tri sẽ bầu cho những nhóm ôn hòa hơn của đảng Lập Hiến. Báo Saigon
23/4/1937 đã có thông tin về những nhà được xây “ Lao động xã ” ở khu
Chợ Đũi :
Một
tin-mừng cho anh em thợ thuyền
Lao-động
xã
Đây
là ảnh của xóm nhà bình dân đương cất tại đường Général Lizé (Chợ-đũi). Xóm nhà
nầy nhà nước để cho anh em thợ-thuyền mướn với một cái giá rẻ đặc biệt.
Trong chừng vài tháng nữa, xóm nhà nầy sẽ làm xong.
Và xây
nhà trẻ ở khu lao động vùng Chợ Lớn
Nhà
nuôi con nít trong Cholon
Thành
phố Cholon mới mở thêm tại Bình-tây một nhà nuôi con nít, kể luôn nhà Bình-tây
và Xóm Củi thì trong Cholon được ba nhà bảo dưỡng hài nhi.
Nhà
mới cất tại Bình-Đông, mỗi ngày từ 5 giờ 45 phút sớm mai tới 6 giờ 15 phút
chiều, lãnh nuôi mà chẳng tính tiền chi hết, những trẻ con của các dân thợ vì
mắc đi làm ăn mà chẳng có thể nuôi nấng ở nhà được. Cũng như mấy viện bảo dưỡng
hài nhi khác, mấy người giúp việc tại đây đều hết lòng cần mẫn. Về việc thuốc
men thì mỗi ngày có Quan Thầy trông nom.
Nhà nầy
cũng như nhà tại Bình-tây và Xóm-Củi cất tại chỗ rất đông dân số, thật là đại
hữu ích cho dân thợ ở vùng nầy.
Dịch vụ xã hội : Báo chí và thư
viện
Thập niên
1930, xã hội và chính trị ở Saigon có nhiều biến đổi và chuyển biến rất lớn. Về
báo chí và chính trị trong thời kỳ này, các tờ báo quốc ngữ xuất bản thường và
lâu dài có các tờ Phụ Nữ Tân Văn, Công Luận báo, Lục Tỉnh Tân Văn, Saigon, Đuốc
Nhà Nam, Điển Tín. Ngoài ra còn các tờ báo xuât hiện không lâu dài như các tờ
La Cloche Fêlée, La Lutte, L’Avant-Garde. Chữ quốc ngữ và văn học quốc ngữ qua
các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Hoàng Mưu, Phú Đức, v.v… xuất bản và có ảnh
hưởng sâu rộng. Trong xã hội vai trò phụ nữ không còn trong khuôn khổ của cựu
trào và bị ảnh hưởng của tân trào qua văn hóa phương Tây. Tiêu biểu cho sự thay
đổi trong xã hội là sự thành lập dịch vụ thư viện lưu động Nam Kỳ phổ thông hóa
kiến thức và rin tức đến nhiều người dân ở các nơi trong lục tỉnh và ý tưởng
tuyển chọn hoa hậu Nam Kỳ dự triển lãm hội chợ thế giới.
Năm 1936,
ở Nam Kỳ chính quyền có cung cấp một dịch vụ công cộng truyền bá kiến thức rất
đáng để ý. Đó là dịch vụ thư viện lưu động. Theo đó các xe chở sách, lấy từ kho
sách của chính quyền, đi đến các châu thành của lục tỉnh để cho nhân dân đọc và
mượn sách. Báo chí đều có đăng tin về thời biểu xe chở sách đến các tỉnh thành.
Anh
em ở Mytho nên nhớ rằng 10 giờ sáng thứ ba 25 Février, chiếc xe hơi chở sách
đến Mỹtho cho anh em mượn sách
(theo
Saigon, 21/2/1936)
Báo Saigon
2/6/1936 cho biết dịch vụ này ở Nam Kỳ đã có ở Cam Bốt trước đó 2 năm với hình
ảnh xe chở sách lưu động như sau
Ở Nam-kỳ mới có xe chở sách được vài tháng nay; ở Cao-miên có thứ xe ấy
đã 2 năm nay rồi, nhưng ở Cao-miên chở sách đi bán chớ không phải cho mượn như
ở Nam-kỳ. Hình trên là chiếc xe hơi chở sách ở Caomiên (Saigon 2/6/1936, nguồn : Thư viện quốc gia
Việt Nam)
Lộ trình
các xe chở sách được thông báo trên báo chí để người dân biết đến mượn và trả
sách. Thí dụ như trong số báo Saigon (5/5/1937), thời gian và địa điểm các xe
chở sách đến lục tỉnh (lần thứ 31) được đăng như sau :
Xe
cho mượn sách chạy vòng quanh Namkỳ lần thứ 31
GOCONG,
trước Bungalow vào ngày 3 Mai 1937 từ 16 giờ tới 18 giờ
MYTHO,
sân chơi trường học vào ngày 4 Mai 1937 từ 10 giờ tới 12 giờ 30
BENTRE,
trước C.F.A, vào ngày 5 Mai 1937 từ 7 giờ tới 11 giờ.
SADEC,
trước tòa bố hay trong nhà để xe sở Trường-Tiền (nếu trời mưa) vào ngày 6 Mai
1937 từ 7 giờ tới 11 giờ.
TRAVINH,
trước hảng S.I.C.A.M vào ngày 7 Mai 1937 từ 7 giờ tới 11 giờ.
VINHLONG,
trước Tòa bố hay nhà để xe trong tỉnh (nếu trời mưa) vào ngày 7 Mai 1937 từ 16
giờ tới 18 giờ rượi
TANAN,
trước C.F.A. vào ngày 8 Mai 1937 từ 10 giờ tới 12 giờ.
GIADINH,
sân chơi trường học vào ngày 11 Mai 1937 từ 7 giờ tới 9 giờ.
THUDAUMOT,
trước tòa bố, vào ngày 11 Mai 1937 từ 10 giờ tới 12 giờ.
BARIA,
trước C.F.A. vào ngày 12 Mai 1937 từ 7 giờ tới 9 giờ.
BIENHOA,
tại nhà thương điên vào ngày 12 Mai 1937 từ 15 giờ tới 15 giờ 30.
BIENHOA,
trước tòa bố hay sân chơi trường học (nếu trời mưa) vào ngày 12 Mai 1937 từ 16
giờ tới 18 giờ.
Sau này dịch vụ này có tên là “ Kho sách vận-chuyển Nam-kỳ ”
như báo Saigon (27/7/1939) đăng như sau :
Kho
sách vận chuyển Nam-kỳ
Ngày
31 Juillet nầy “ Kho sách vận chuyển Nam kỳ ” sẽ đến các tỉnh kỳ 86
theo ngày giờ sau đây, vậy ai muốn mượn sách đọc hãy để ý tin nầy :
Baclieu trước tòa bố ngày 5 Aout 39 từ 16 giờ đến 18 giờ.…
Camau, Trước Quận ngày 6 Aout 39 từ 10 giờ đến 12 giờ...
Hatien trước tòa Bố ngày 3 Aout 39 từ 9 giờ đến 12 giờ.…
Đôi khi cũng có thông cáo cho các độc giả trả sách mượn từ thư viện nhà nước như sau
Tin
vắn
Ai có mượn sách của “ kho sách nhà nước ” ở Saigon, hãy đem
trả gấp để tiện việc làm inventaires (f) và
sửa sách hư hại”
(Saigon
29/7/1939)
Dịch vụ thư viện lưu động vẫn hoạt động trong thời kỳ chiến tranh thế
chiến thư 2, ít nhất cho đến năm 1941 khi Nhật vào Đông Dương, như tờ Saigon
ngày 11/4/1941 đã có đăng tin như sau về thông báo của dịch vụ “ Kho
sách vận chuyển xứ Nam Kỳ ”
Lời
rao
Muốn
cho tiện việc kiểm-điểm và sửa chữa sách của “ Kho sách vận-chuyển xứ Nam
kỳ ” xin mời những độc giả có mượn sách mau mau đem trả, do nơi quan
Chủ-tỉnh, cùng quan Chủ-quận nhứt định.
Sau đó
thì không còn tin tức gì về dịch vu thư viện lưu động này nữa.
Thiết
nghĩ đây là một sáng kiến và chính sách rất có ích cho xã hội trong việc mở
mang dân trí và khuyến khích người dân đọc sách báo vào thời đó. Ngày nay có lẽ
không cần thiết trong thời kỳ Internet nhưng một hình thức dịch vụ nào đó mang
sách đến cho người dân vùng xa xội tiếp cận đến các sách báo để khuyến khích sự
học hỏi và thói quen đọc sách là một chính sách có lợi cho giáo dục về lâu dài.
Hiện nay ở Saigon có một đường sách nhưng chưa có một “ thư viện đường
sách ” hay “ thư viện lưu động ”.
Vai trò công dân
Vì Nam Kỳ
là thuộc địa, luật ở Pháp được áp dụng, trong đó bầu cử hội đồng quản hạt (hạt
tương đương với tỉnh ngày nay), hội đồng thành phố và hội đồng tổng (huyện) là
những sinh hoạt chính trị thu hút nhiều sự chú ý của người dân. Các ứng cử viên
đều được tự do đứng ra tranh phiếu của cử tri. Ứng cử viên phải hội đủ điều
kiện công dân đóng thuế.
Những
người đã có án tù hay bị phá sản thì không được ứng cử làm nghị viên hội đồng
thành phố hay hội đồng quản hạt. Như trường hợp ông Tạ Thu Thâu thuộc cộng sản
đệ tứ vừa trúng cử vào hội đồng thành phố Saigon tháng 5 năm 1935. Không lâu
sau nhà cầm quyền bắt ông đưa ra tòa buộc vào tội tổ chức hội kín Trotskyste để
tước quyền công dân ông Thâu và do đó không thể là nghị viên ở hội đồng thành
phố. Trường hợp ông nghị viên Barbanson ở Hội đồng Quản hạt năm 1932 buôn bán
bị vỡ nợ. Theo luật pháp thì người nào bị tòa án kêu án khánh tận (vỡ nợ) thì
mất hết quyền công dân. Vì thế trong buổi họp của Hội đồng Quản hạt, nhiều ông
nghị viên cho là tất cả các quyền bầu trong các phiên họp và đại diện cho hội
đồng quản hạt đi dự đại Hội đồng kinh tế và lý tài Đông Dương của ông Barbanson
đều không có giá trị (Sài-Thành 29/9/1932).
Các cử
tri gồm những ai đã có trả thuế thân hàng năm, có địa chỉ hay gia sản rõ ràng.
Nói chung hầu hết những cử tri ở các tỉnh thành Nam Kỳ là những người thuộc
thành phần khá giả trong xã hội như điền chủ lớn hoặc nhỏ, các thương gia, các
nhà doanh nghiệp, các công chức, các thành phần trí thức (bác sĩ, luật sư, kỹ
sư,...). Cuộc điều tra dân số ở Saigon kết thúc vào tháng 7 năm 1931 cho biết
Saigon có 118.956 cư dân (không kể thành phố Chợ Lớn). Các thành phần được chia
ra như sau (PNTV 30/7/1931) :
Người Âu
châu : 7.716 dân xi-vinh (civil), 1.715 quân binh và 713 người ngoại quốc.
Người Việt : 73.838 xi-vinh và 2.147 quân binh. Người Tàu : 31.630 và
1.197 người Á châu khác. Tổng cộng là 118.956 người. Dân số như vậy ít hơn hồi
năm 1920 đến 23.000 người. Có lẽ là do những người lao động đã đi ra ngoại
thành vùng Gia Định, Phú Nhuận và Thị Nghè vì tiền nhà ở đó rẻ hơn (PNTV
30/7/1931). Như vậy người Việt khoảng gấp 8 lần số dân người Pháp và 2 lần số
dân người Tàu. Người Tàu ở Saigon chủ yếu tập trung quanh khu vực Chợ Cũ, dọc
bến Chương Dương, rue D’Ayot (đường Nguyễn Thái Bình), rue Lefebre (đường
Nguyễn Công Trứ), rue Chaigneau (đường Tôn Thất Đạm), rue Bourdais (đường
Calmette), rue Boresse (đường Yersin) vùng quận 1 ngày nay.
Cách thức
tổ chức bầu cử cũng giống như bên Pháp và bầu cử hội đồng thành phố ở Nam Kỳ
xảy ra cùng thời gian với cuộc bầu cử hội đồng thành phố, tổng ở khắp nước
Pháp. Riêng ở Saigon, Hội đồng thành phố Saigon có 18 nghị viên trong đó người
Pháp có 12 người gấp đôi số nghị viên người Việt là 6 người. Như vậy cho thấy
tiếng nói của người Việt chỉ là thiểu số, mặc dù họ đại diện cho đa số dân ở
Saigon. Các nghị viên người Pháp được các cử tri có quốc tịch Pháp bậu Trong số
những người có quốc tịch Pháp có nhiều người Việt và Ấn nhưng vẫn là số nhỏ so
với người Pháp sinh sống ở Saigon.
Những cử
tri có “ cạc cử tri ” (cartes d'électeur) được phép vào phòng đầu
phiếu bầu và chứng kiến ban trị sự tổ chức bầu cử xem xét phiếu sau khi bầu cử
kết thúc. Ban trị sự là những người độc lập từ tư pháp trong đó gồm có trưởng
tòa. Năm 1937 và 1939 các ứng cử viên cộng sản đệ tứ và đệ tam quốc tế đề được
nhiều phiếu hơn các đảng phái khác và đã đắc cử vào hội đồng thành phố.
Ở một số
nơi, bầu cử có thể bị ứng cử viên mua chuộc cử tri như báo Saigon ngày
17/2/1936 đã có đăng như sau về bầu cử ở tổng Minh Trị tỉnh Bến Tre. Cử tri
phải viết thư khiếu nại đến thống đốc Nam Kỳ.
Bến
Tre
Chung
quanh cuộc tuyển-cử nghị-viên địa-hạt tổng Minh-trị
Ngày
9 Février rồi ở tổng Minh-trị có cuộc tuyển cử một nghị viên địa-hạt do thầy
Ban-biện Huỳnh-văn-Thi ngồi chủ tọa.
Đến
4 giờ chiều khui thăm ra thì:
M.
Nguyễn-hữu-Thuần dit Sáng có 60 thăm và 2 thăm lem.
M.
Phù-dung-Thân 59 thăm và 4 thăm lem. Số cử-tri đi bỏ 131, số thăm bị hủy 12,
trong số nầy có 2 lá thăm trắng, 2 lá biên tên đọc không được và 2 cái bao thơ,
trong đó có đựng mỗi bao 2 thăm của Thuần và Thân.
Xét
trong số thăm bị hủy thì thăm của Thuần vì vô ý làm lem nên bị hủy còn thăm của
Thân thì có làm dấu rõ ràng, có lá biên chữ ký theo kiểu người ta ký giấy nợ.
Sau
khi nghe bàn trị-sự tuyên bố số thăm rồi thì cô Nguyễn-thị-Hợi là vợ Monsieur
Thân chưởi rủa những cử-tri nào lấy tiền, ăn cơm và uống rượu của cô mà không
bỏ thăm cho chồng cô. Chúng tôi lấy làm tủi nhục cho mấy ông cử-tri nào đây và
không hiểu cô Hợi nói cử-tri lấy tiền gì của cô ? Tiền mua thăm chăng ?
Vì
xét chưa ai đủ thăm đắc-cử nên M. Thuần không kêu nài chi hết, không dè đến
ngày 11 Février chúng tôi được tin rằng M. Phù-dung Thận đắc-dử với 62 lá thăm.
Một
tin bất ngờ làm cho dư luận của dân ở Minh-trị rất xôn xao vì nếu đắc cử là
Thuần đắc cử bằng không thì thôi, chớ sao Thân lại đắc cử ? Bí mật !
Nếu
nói M. Thân được đem thêm mấy lá thăm đã hủy vô thì mấy lá thăm của Thuần đã
hủy sao lại không được đem vô ? lại thăm lem của Thuần vì vô ý mà ra chớ thăm
của Thân thì rõ ràng là sái luật kia mà !
Dưới
con mắt công-bình chánh trực của vị Thủ-hiến xứ Nam Kỳ là quan Thống-đốc Pagès,
chúng tôi ước mong sao cho cuộc tuyển cử đừng có những chuyện khó hiểu như
chuyện vừa xảy ra ở Tổng Minh-Trị thì chúng tôi rất lấy làm may mắn lắm vậy.
Một
số cử-tri !
Báo chí
được phép hoạt động theo qui chế luật như bên Pháp. Người dân thường viết lên
báo khi có những việc ảnh hưởng đến đời sống của họ. Báo Saigon (27/5/1936) có
đăng thơ của độc giả than phiền sự làm mất vệ sinh của các chuồng nuôi dê của
những người Ấn Độ gần ga xe lửa Nancy, gây ảnh hưởng đến dân cư kế cận.
Xin
sở vệ-sanh lưu ý !
Sau
vựa lá gần gare Nancy, trước mặt giãy (sic) phố lá 20 căng là một nơi rất dơ
dáy, nhơn dân ở chung quanh đó đều than phiền vì mấy cái chuồn (sic) nuôi súc
vật, nào bò, ngựa, nhiều nhứt là dê có gần 400 con, của mấy anh chà nuôi để làm
thịt và nặng (sic) sữa bán.
Vẫn
biết đó cũng là một kế sanh nhai của họ, song ít ra họ cũng phải cất chuồn
riêng xa nhà ở một chút, hoặc làm cách nào cho sạch sẽ, chớ đàng nầy vì tư lợi
của họ mà hại cả một xóm ở vùng ấy phải mang bịnh vì mấy con dê chết đều liệng
chung quanh đó, Ít ngày nó sình lên bay mùi rất khó chịu.
Vậy
ước mong sở Vệ-sanh nên vì sự ích lợi chung của nhơn dân ở vùng đó mà trừ giùm
(sic) mối hại nầy.
Bất-Bình
Hội đoàn
Ngoài các hội thể thao của người Việt như Cercle Sportif
Annamite hay Commision Interclub Annamite (CIA) hoạt
động rất tích cực còn có hội Khuyến học Nam Kỳ (Société d'enseignement
mutuel de Cochinchine, SEMC) và Hội Trí đức thể dục Nam Kỳ (Société pour
l’Amélioration Morale, Intellectuelle et Physique des Indigènes de Cochinchine,
SAMIPIC).
Hội Khuyến học Nam Kỳ (Société d'Enseignement Mutuel de Cochinchine)
do ông Bùi Quang Chiêu (1873-1945) thành lập năm 1907 có trụ sở ở số 34 đường
Aviateur Roland Garros (nay là Thủ Khoa Huân). Hội đã tổ chức nhiều buổi nói
chuyền với nhiều đề tài về giáo dục, văn hóa, khoa học v.v… Ông Lương Khắc Ninh
đã có diễn thuyết ở Hội Khuyến học Nam Kỳ về đề tài “ Cải lương hí nghệ ”.
Ở tại trụ sở hội, ngày 15/10/1923, Nguyễn An Ninh đã có nói chuyện với đề tài “ L'idéal
de la jeunesse Annamite ” (Lý tưởng thanh niên An Nam). Buổi nói
chuyện này làm ông nổi tiếng thu hút sự chú ý của nhiều thanh niên Việt Nam và
cũng gây khó khăn cho Hội và Nguyễn An Ninh sau này khi chính quyền Nam Kỳ do
thống đốc Cognacq không đồng ý đến những ý kiến của ông Ninh. Bắt đầu từ năm
1941, Hội khuyến học Nam Kỳ lập ra giải thưởng văn chương. Tác phẩm Chồng
con của Trần Tiêu được trao giải đầu tiên. Các năm sau có các tác
phẩm Triết học Bergson của Lê Chí Thiệp, bản nhạc Sông
Bạch Đằng của Lưu Hữu Phước (1942), Danh từ khoa học của
Hoàng Xuân Hãn (1943) (13).
Hội SAMIPIC do hai ông Nguyễn Đình Trị và Nguyễn Khắc Nương thành lập
vào năm 1926. Đây là hội của các nhà trí thức, tư sản ở Nam Kỳ thành lập có mục
đích giúp đỡ và phát triển trí đức và thể lực người Việt. Cũng như hội khuyến
học Nam Kỳ, trụ sở hội đã có nhiều buổi diễn thuyết về các đề tài văn hóa, giáo
dục và ngay cả chính trị được nhiều người quan tâm. Như cuộc tranh cãi về thơ
mới và thơ cũ giữa cô Nguyễn Thị Kim của báo Phụ Nữ Tân Văn và ông Nguyễn Văn
Hanh, một nhà giáo, vào ngày 16/1/1935 ở hội quán SAMIPIC. Ngày 25/11/1937,
cuộc nói chuyện của ông Edouard Marquis về đề tài về sự giáo dục “ con trẻ
ở trong gia đình ”, thanh niên học sinh theo tây học, nhiều cha mẹ
phàn nàn là “ chẳng có một người thanh-niên Annam biết giữ cho trọn đạo làm
người, nhơn nghĩa lễ trí tín không ngơ, thờ cha kính mẹ không hề biết đến, phần
đông đã bị lôi cuốn vào vòng phóng đãng, hư thân mất nết một cách lạ lùng”.
Buổi nói chuyện này đã thu hút rất nhiều khán thính giả, trong đó có bác sĩ
Trần Văn Đôn, Nguyễn Khắc Nương, Huyện Của, phản ảnh sự thay đổi lớn trong tình
trạng xã hội và gia đình lúc bấy giờ.
Hội có cho học bổng các sinh viên học sinh xuất sắc học các trường đại
học ở Đông Dương và Pháp. Năm 1930, họa sĩ Lê Văn Đệ, người công giáo ở Bến
Tre, sau khi tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (École
supérieure des Beaux-Arts) ở Hà Nội đã xin và được học bổng của SAMIPIC qua
Pháp học. Với giấy giới thiệu của hiệu trưởng và họa sĩ trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương là ông V. Tardieu, và vài bức tranh ông mang theo từ trường
Đại học Đông dương, ông đã được vào học trường Cao đẳng Quốc gia Mỹ thuật Pháp
ở Paris (École Nationale Supérieure des Beaux-Arts de Paris) không phải
qua một năm dự bị. Họa sĩ và nhà điêu khắc Jean-Paul Laurens đã chú ý đến tài
năng của ông Đệ và chấp thuận ông vào xưởng vẽ của ông (Écho Annamite
31/3/1939).
Ông Đệ là một họa sĩ thành đạt khi ở Pháp, năm 1932, ông có các tác phẩm
triển lãm được khen tặng ở phòng tranh của Hội nghệ sĩ quốc gia
Pháp : Diseuse de bonnne aventure (Bà thầy bói), Gare
de Montparnasse (Trên sân ga Montparnasse), Femme à sa
toilette (Thiếu nữ điểm trang). Các tranh này vào năm 1933 được vào
phòng tranh danh dự (Salle d’honneur) trong phòng triển lãm của hội, và được sự
chú ý của tổng thống Pháp Lebrun và ông bộ trưởng Albert Sarraut. Sau đó năm
1934 ông có những buổi triễn lãm tranh ở Milan và Rome. Tại Milan, các bức
tranh ông được sự chú ý của ông Lamoureux, bộ trưởng thương mại, trong phái đoàn
tham quan. Qua sự giới thiệu của ông Lamoureux, viện Bảo tàng Luxembourg (Musée
de Luxembourg) đã mua bức tranh La vie en famille (Cuộc sống
gia đình) của ông. Nhân dịp này, ông Đệ đã nhận được sự chúc mừng thành công
của toàn quyền Đông Dương.
Tác phẩm La vie en famille của họa sĩ Lê Văn Đệ triễn
lãm ở Milan năm 1934 và được Viện bảo tàng Luxembourg mua lại.
Ở Saigon cũng có buổi trưng bày triển lãm tranh của họa sĩ Hernand
Larrain người được giải thưởng Đông Pháp (Grand Prix d’Indochine) vào
đầu năm 1937. Theo Công Luận báo (1/2/1937) thì các bức tranh “tuyệt khéo,
tuyệt đẹp, nên được bà con ở Sài thành hoan nghinh lắm”.
Cô gái Mọi của họa sĩ Hernan Larrain
Hernan
Larrain là lãnh sự Chi-lê tại Việt Nam, ông lấy bà Charlotte Mayer-Blanchy,
cháu nội của ông Paul Blanchy, thị trưởng đầu tiên của thành phố Saigon. Hernan
là một họa sĩ có tài nhưng ít được biết đến. Con ông, Gilles Larrain sinh ở Đà
Lạt, là một nhà nhiếp ảnh có tiếng hiện nay.
Ở Saigon, có hội Hàng Không (Ligue de l’Aviation) thành lập không
lâu sau khi Saigon chứng kiến chuyến bay đầu tiên ở Đông Á do phi công người Bỉ
Van den Born bay vào ngày 10 tháng 12 1910. Năm 1930, để kỷ niệm 20 năm sau chuyến
bay lịch sử này, hội Hàng Không đã tổ chức ngày hội mừng sự kiện này. Báo
Saigon ngày 29/12/1930 cho biết ở phi trường Tân Sơn Nhất có 7 phi cơ từ
Biên-hòa bay đến cho khán giả coi trong đó có hai chiếc đáp xuống phi trường
cho khán giả tham quan. Ngoài ra có hai chiếc máy bay 5 chỗ ngồi của hảng Air
Orient ở phi trường chở khán giả bay vòng xem với vé 10 đồng mỗi người. Hảng xe
hơi Bainier (trụ sở ở góc đường Charner (Nguyễn Huệ) và Bonard (Lê Lợi) sẽ lo
việc chuyên chở khán giả đến phi trường Tân Sơn Nhất.
20
năm về trước
Lễ
kỷ-niệm cuộc bay lần thứ nhứt ở Saigon
Ngày
28 Décembre nầy thì hội “ Hàng Không ” ở đây sẽ bày một cuộc lễ vui
chơi, tại Tân-sơn-Nhứt để kỷ niệm cuộc bay lần thứ nhứt ở Saigon đến nay đã
cách hai mươi năm rồi. Đến ngày nói ở trên, thì có lẽ 7 chiếc máy bay ở
Biên-hòa hiệp đoàn mà bay với nhau, giả đò quăng trái phá xuống một cái nhà
tranh. Rồi hai cái ở chót tách riêng ra thả dù và bộ hành xuống cho thiên hạ
coi.
Hãng
“ Air-Orient ” cho mượn hai cái máy Potez có năm chỗ ngồi mỗi cái.
Trong lúc lễ, hộ hành ai muốn đi thử một vòng lên trời chơi, thì họ sẵn lòng
chở cho nhưng phải trả mười đồng bạc. Lại có một chiếc phi thoàn (phi cơ) do
quan hai thủy Ménès cầm máy cũng dự vào cuộc lễ. Ngoài mười cái phi thoàn ấy
thì hội Ligue de l’Aviation mới mua một cái nhỏ bên Tây mới qua bữa ấy cũng đem
ra cho bay thử.
Muốn
cho cuộc lễ có cái tánh chất thật kỷ niệm thì bữa chúa nhựt sẽ có các cô con
gái đì cùng thành-phố Saigon mà bán những huy-hiệu và ông Mathieu sẽ xin phép
sở Điển-tín đóng một con dấu riêng trên các bì thơ có cò ngày 28 Décembre. Con
dấu ấy có mấy chữ Pháp như sau nầy: Journée commémorative du vingtième
anniversaire premier vol Saigon.
Ai
muốn đi lên Tân-sơn-Nhứt coi thì sẽ có xe hơi của hảng Bainier săn sóc chở
chuyên. Vào cửa phải trả tiền: hai đồng, một đồng và hai cắc.
Dấu bưu điện kỷ niệm 20 năm chuyến bay đầu tiên ở Saigon vào năm 1910
Liên lạc
giữa Saigon và thế giới bên ngoài qua thư từ lúc này là qua đường thủy và đường
hàng không. Đường hàng không từ năm 1930 đã có mỗi tuần có một chuyến bay từ
Saigon qua Marseille hay từ Marseille qua Saigon của hãng Cie Air-Orient (PNTV
18/6/1931)
Hội đoàn làm công tác xã hội có kết quả nhất là Hội Dục Anh (Société
d’Entr'aide Maternelle) có mục đích mở ra các nhà hay viện Dục Anh (crèche)
để lãnh nuôi nấng con nít nhà nghèo được cha mẹ đem tới vào buổi sáng đặng đi
làm rồi tối về ghé qua lãnh con về nhà. Hội được thành lập bởi bà Béziat cùng
các phụ nữ Pháp và Việt Nam. Hội được báo PNTV khuyến khích ủng hộ kêu gọi các
phụ nữ khá giả góp tài sức chung nhau xây dựng các viện dục anh ở lục tỉnh.
Trong các phụ nữ trong hội dục anh có bà đốc phủ Thu, bà Bác-vật Lang (kỹ sư
Lưu Văn Lang được người dân gọi là Bác-vật Lang), bà trạng sư Trịnh Đình Thảo,
bà bác sĩ Nhã (Nguyễn Văn Nhã), bà Cao Thị Cường. Viện Dục Anh đầu tiên mở cửa
ở Saigon vào tháng 4 năm 1931 ở số 1 rue Jean Mazet (nay là đường Đặng Dung),
Tân Định. Nơi đây có gần 30 trẻ nít vừa lớn vừa nhỏ được gởi tới nuôi nấng và
trông nom giùm. Tờ PNTV, 4/6/1931 có viết về viện Dục Anh đầu tiên ở Saigon như
sau
Viện
Dục-Anh ở Saigon
Cơ
quan nầy thật là có ích cho con nhà nghèo ta.
…
Đứa
trẻ nào vô viện, đã có quần áo của viện cho mặc, nên chỉ thấy đứa nào quần áo
cũng trắng trẻo sạch sẽ; trước ngực áo của mỗi đứa, đều có số hiệu riêng cho dễ
nhận; độc giả coi kỹ trong những tấm hình in đây, có lẽ cũng thấy rõ số hiệu
đó.
Trong
viện có nhà tắm, có phòng chơi, có chỗ ngủ trưa, và có hơn một chục cái nôi để
cho mấy đứa còn nhỏ nằm. Lại có những cái bàn ăn nho nhỏ, sơn màu trắng, coi
rất vừa vặn cho các trẻ nhỏ ngồi ăn. Đồ cho con nít chơi cũng nhiều: gấu, ngựa
, xe, v.v… thấy bộn bang, do của viện sắm ra , hay là các nhà từ-thiện tặng cho
con nít cũng có.
Con
nít ở trong viện, lúc ăn, lúc ngũ, lúc tắm, lúc chơi, đều có người trông nom
săn sóc, tử tế kỹ lưỡng lắm. Bởi vậy coi mặt đứa trẻ nào, cũng thấy tươi cười
thơ thới; chúng nó quần tụ chơi giởn với nhau, ngó thật là vui vẽ.
Ai
tới thăm viện, thấy quang cảnh ấy, cũng phải lấy làm vui mừng rằng nhờ có chỗ
nầy mà con cái của mấy chục cái gia-đình nghèo khó, được nuôi nấng hạp phép
vệ-sanh, trông nom như là cha mẹ.
Hành chánh, quan lại và công lý
Trong đời sống thường ngày, quan hệ với chính quyền sở tại đã có những trở ngại khó khăn cho người dân qua sự lạm dụng quyền hành, nhũng nhiễu người dân của quan lại. Năm 1936, ở Đức Hòa thuộc tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc tỉnh Long An), viên quan quận Trần Văn Khuê đã hăm dọa hơn 40 dân quê trong 10 làng trong quận Đức Hòa tội làm Cộng Sản để ăn tiền hối lộ đã bị bắt quả tang. Tờ Saigon 28/5/1936 đã có viết về những sự tham ô và ức hiếp người dân sau vụ chủ quận Đức-Hòa như sau :
Nhơn
vụ viên chủ-quận Đức-Hòa
Điều
thứ 174 trong hình luật với quan-lại bị can về tội ăn hối-lộ
Một
viên quan ăn hối-lộ từ khi ra làm đến khi bị phát-giác đã chôn chết biết bao
nhiêu dân lương-thiện ?
Thay
mặt cho Chánh-phủ, kẻ làm quan có cái trách-nhậm (sic) nặng-nề: cai-trị và
bả-hộ nhơn-dân. Chớ có ai sống nhờ giọt mồ hôi nước mắt của dân, ra làm quan
lại nhè dân mà để ép bốc lột….
Thằng
dân nghèo ! Thằng dân lương thiện ! Thằng dân lam lụ làm ăn. Thình lình nay nó
bị quan bắt.
Khi
lính dắc (sic) nó đi về nha, nó không rõ đến đó làm gì !
Khi
bị quan thịnh-nộ, quát-tháo đòi tống-giam, thằng dân nghèo lương-thiện kia, mới
hay rằng quan tình nghi nó là kẻ bất-lương đã can vào một vụ cướp nào đó.
“Can
vào một vụ cướp” ! Trời ơi ! Nó bị can vào tội ăn cướp ?
Chính
nó cũng không hiểu có vụ cướp nào ở đâu, hồi nào mà bảo nó là bị can. Vì nó
chẳng rõ biết gì cả.
Trọn
một đêm đó, thằng dân nghèo phải bị giam trong khám tạm ở nhà quan.
Ở
nhà, mẹ già, vợ yếu, con thơ gần 10 mạng, kẻ đau, người đói đang trông chờ nó
chạy tiền đem về mua gạo, mua thuốc… Nhưng nó đã bị bắt rồi !
Sáng
bữa sau. Nơi phòng việc riêng của quan, thằng dân bị kêu ra cho quan xét hỏi.
Một
bạt tai dằn mặt. Thằng dân hoảng-hồn, sợ té đái, dập đầu lạy quan lia-lịa, và
kêu oan chẳng ngớt miệng !
“ Oan
gì mầy ? Nếu biết phải thì khỏi ở tù.” Quan thịnh nộ và hăm dọa nó đủ đều.
Thế
rồi, bỗng nhiên, chiều lại người ta thấy thằng dân được tha !
Ngay
lúc ấy, thằng Đực, mới 12 tuổi, con của nó, đã ở đợ cho ông điền chủ Y… để lấy
20p. tiền công chăn-trâu trong một năm.
Cách
vài tháng sau. Thằng dân ấy lại bị bắt đến quan một lần nữa. Vừa thấy mặt nó,
quan đã hét to lên : “ Mới thoát khỏi tội ăn-cướp, bây giờ mầy lại
liên-can vào tội làm Cọng-sản nữa à ! Cái quân thiệt quá to gan. Để quan bỏ tù
rụt xương mầy cho biết mặt ”.
Làm
Cọng-sản ? Thiên địa quỉ thần ơi ! Cọng-sản gì cái thằng dân ấy, mà bảo nó là
Cọng-sản. !
Như
lần trước, thằng dân dập đầu kêu oan…
Trong
nhà chẳng có một xu con, nó phải bị đòn-bọng nhừ-tử.
·
Mày phải khai ngay đi. Còn ai nữa ?
·
Bẩm oan cho con lắm, quan lớn à !
·
Oan cho mầy hả ? Lính, bây cứ tra.
·
Ôi, cha ! Bẩm… bẩm để con khai. Thằng Mít ở gần con, làm Cọng-sản.
·
Ừ, thằng Mít. Thằng Mít làm nghề gì ?
·
Dạ bẩm, nó cũng làm mướn như con.
·
Láo! Làm mướn, nghèo thế ấy, thằng Mít làm Cọng-sản nổi gì ? Mầy cáo
gian cho người ta. Lính, tra nó.
·
Dạ…, dạ bẩm, ông điền chủ Y… Xuối con làm Cọng-Sản.
·
Ông Điền-chủ Y… Xuôi mầy ? Ừ, được.
Chiều
lại, ông Điền chủ Y… bị bắt.
Nằm
khám hết một đêm. Sáng ngày, người ta lại thấy ông Y… được thả. Thằng dân nghèo
được thả. Cho đến thằng Đực cũng được ông Y… thả, khỏi phải ở đợ nữa.
Người
ta lại hay thệ một việc nữa cũng hơi lạ, là sở ruộng 30 mẫu của ông Y… đã thuộc
về người khác đứng bộ rồi.
Đó,
cái cách hối-lộ của một số quan-lại vô lương-tâm ở xứ mình là vậy.
Trong
quan-trường cũng lắm hạng người thanh-liêm, trong sạch, biết thương yêu dân,
nhưng lại cũng có nhiều kẻ năm chí tối chỉ biết đụt-khoét, vơ vét từ cắt bạc,
từ hột cơm mồ-hôi nước mắt của dân.
Khoản
thứ 174 trong hình-luật
Lật
bộ hình-luật (code penal) đọc nơi khoản 174, nói về tội của các quan-lại ăn
hối-lộ, như thế nầy:
Trong
hàng các quan-lại, bất cứ là chức nhỏ hay chức lớn, nếu bắt được quả tang về
tội hối-lộ, thì bị tòa phạt từ 5 năm tù sấp lên, nếu số bạc hối-lộ trên 300
quan tiền tây, tức trên 30 đồng bạc Đông-dương. Những kẻ tùng phạm hối-lộ cũng
bị tù từ 2 năm đến 5 năm tù.
Như
số bạc hối-lộ dưới 300 quan, thì chánh-phạm bị án tù 2 năm tới 5 năm tù. Còn
tùng-phạm thì từ 1 năm đến 4 năm tù.
Như
thế là bất cứ một vị quan lớn, quan bé nào, hễ bị bắt được quả tang về tội
hối-lộ đều phải bị ở tù cả.
Hình-luật
sờ-sờ trước mắt, khoản thứ 174 đã có biên rõ ràng như trên.
Chúng
tôi tin chắc rằng tòa án sẽ chiếu theo hình-luật mà trừng-trị thẳng tay những
thứ tham-quan, ô-lại để trừ bớt mối hại cho dân chúng nhờ.
HIỀN-SĨ
Về phương diện tư pháp, tòa án ở Nam Kỳ được tổ chức trên tinh thần tam quyền phân lập như theo luật pháp ở Pháp trong khi ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ luật An Nam do triều đình Huế được áp dụng. Tòa án ở Nam Kỳ thì ngoài chánh án chủ tòa còn có bồi thẩm (assesseur) đại diện cho dân ngồi cạnh ông quan tòa chánh án tham dự vào xét xử, mục đích là cân bằng tránh sự thiên vị có thể có của ông chánh án. Đây là qui tắc mà các nhà lập pháp ở quốc hội đặt ra trong hiến pháp. Ông dự thẩm (juge d’instruction) có trách nhiệm tra xét tìm kiếm chứng cớ của nghi phạm trước khi đem ra tòa xử. Tờ Phụ Nữ Tân Văn (1 và 8 tháng 10 năm 1931) có giải thích về công việc của bồi thẩm, dự thẩm và thể thức trong tòa án áp dụng ở Saigon và Nam Kỳ như sau
Assesseur
là gì ?
Có
một hai chị em độc-giả ở Lục-tỉnh viết thơ lên hỏi chúng tôi rằng tòa Đại-hình
xử, vẫn có chức assesseur, vậy chức ấy là gì và người kêu là hội-đồng thẩm-án,
người kêu là thị-sự, thì có phải không?
Nghĩ
vì lúc nầy ta đang cần chỉnh-đốn mở mang tiếng nước nhà, và mượn Hán-văn Pháp-văn
vô cho tiếng mình thêm giàu thêm rộng, vậy chúng tôi rất vui lòng tỏ bày ý-kiến
hẹp hòi của chúng tôi về cái danh-hiệu ấy.
Theo
luật nước Pháp, trong các việc quan-hệ về tội nặng, sợ để một mình quan tòa nhà
nghề (Juge de carrière) ngồi xử, e có chỗ thiên-vị bất-minh chăng, nên chỉ nhà
lập-luật (le législateur) cho dân được dự vào, ngồi bên quan tòa để xét xử án
nặng: ấy là assesseur.
Nước
mình, danh-hiệu gì cũng đều phải mượn chữ Hán để đặt, nhưng có nhiều cái
danh-hiệu, người lúc đầu đặt sai, rồi mình quen dùng đi, nhưng nếu chịu khó suy
nghĩ lại, thì mới thấy rằng có nhiều cái danh-hiệu không đúng.
Assesseur
là một cái chứng cớ.
Dịch
là “hội-đồng thẩm-án” để chỉ về ông assesseur, tưởng không trúng, là bởi tiếng
đó chỉ chung cả một tòa (cour) hay là tất cả các quan tòa – của nhà nước và của
dân – ngồi xử các vụ đại-hình. Hội-đồng thẩm-án, tức tiếng lang-sa kêu là jury
gồm có ba quan tòa nhà-nước và 4 quan tòa của dân, tức là 4 ông assesseurs. Vậy
sao lại lấy danh-hiệu chung cả một cơ-quan, để đặt tên riêng cho một người
trong cơ-quan ấy?
Có
người kêu là “Thị sự”, lại càng không trúng nữa. “Thị-sự” theo nghĩa Hán-văn,
là nhìn, là ngó một việc gì, chớ không có nghĩa gì về sự xét hỏi, nói năng, và
không có ý gì về sự hoạt-động. Lấy cái danh-hiệu ấy mà kêu ông assesseur, thì
không đúng với trách-nhiệm của ổng, ngồi bên quan tòa, đặng trông nom việc xử,
và có quyền xét hỏi phạm-nhơn, mghĩa là ông ấy là quan tòa của dân cử ra để xét
án, chớ có phải nhìn đâu.
Bởi
vậy, chúng tôi tưởng rằng hai cái danh-hiệu mượn Hán-văn để đặt cho assesseur
như thế, đều không thích-hạp cả. Thà là mình lấy tiếng mình mà đặt ra tên gọi
sao đó cũng được, nhưng nếu đã mượn chữ của người ta mà đặt, thì phải cho trùng
với chức-vị và để cho người ta hiểu mới đặng. Ví dụ bây giờ mình viết 4 chữ
“hội-đồng thẩm-án” bằng Hán văn, thì người Tàu chỉ hiểu là mình chỉ về jury,
còn viết hai chữ “thị-sự” thì họ hiểu là cái gì, chớ có phải trúng với nghĩa
chữ assesseur đâu mà họ hiểu nổi.
…
Tiếng
assesseur, theo như “Pháp Hoa tự điển” của Tàu, họ dịch là Phó Phán-quan xem ra
đủ ý-nghĩa và địa-vị của ông Assesseur lắm rồi, nhưng ở xứ ta có nơi dịch là
Bồi-thẩm chúng tôi tưởng là gọn, đúng và hay hơn.
Bồi
là ngồi một bên;
Thẩm
là xét án.
Lấy
chữ gốc (étymologie) ra mà xét, thì tiếng Pháp: Assesseur do chữ La-tinh
Assidre, nghĩa là ngồi gần hay ngồi một bên (s’asseoir auprès) nay mình dịch ra
chữ Hán là Bồi-thẩm, thì chẳng những là đối với tiếng assesseur đã có nghĩa
tương-đương, với nhau, mà lại đúng với chức-vụ quan hệ của ông tòa do dân cữ
lên ngồi bên quan tòa nhà nghề để xét xử các án vậy.
Song
bấy lâu, cái tiếng bồi-thẩm, người mình đã quen dùng để chỉ về ông juge
d’instruction, bây giờ lấy qua cho ông assesseur thì juge d’instruction, dịch
bằng gì ? Đó lại là một vấn-đề dịch tiếng khác nữa.
Ai
cũng biết juge d’instruction là một ông tòa có trách-nhiệm tra xét những
trọng-tội khinh-tội, bắt những kẻ nghi-phạm, và tìm mọi chứng cớ thuộc về
vụ-án. Mổi việc đều do tay ông tra xét và lấy khai, rồi mới đem ra tòa xử. Ổng
có quyền riêng của pháp-luật cho, ổng ngồi một mình một phòng, chớ có ngồi bên
ai đâu, mà kêu ổng là Bồi-thẩm. ?
Chúng
tôi thiết tưởng nên dịch ra tiếng chi khác, hay là dùng đở tiếng Dự-thẩm, không
thì Sơ-thẩm, cũng còn bày tỏ chức-vị và trách-nhiệm của quan tòa ấy hơn là
tiếng Bồi-thẩm. Vì hai tiếng Dự-thẩm và Sơ-thẩm đều có ý-nghĩa rằng tra xét và
lấy khai sẵn sàng để đem ra tòa xử, ấy chính là chức-vụ của juge d’instruction
vậy.
Nhơn
có bạn độc giả viết thơ hỏi về một tiếng assesseur, nên chúng tôi tỏ bày ý-kiến
hẹp hòi của chúng tôi như vậy, chớ thiệt ta còn nhiều danh-từ sai lầm khác, có
một ngày kia, cần phải sửa sang thay đổi lại.
Ta
không nên nói rằng những danh-từ nầy khác, dịch thế nào hay gọi thế nào xong
thì thôi. Vì ở đời cái danh phải cho chánh mới được.
Cũng
đừng nên nói rằng người ta đã dùng quen đi rồi, không nên đổi nữa. Nếu nói mỗi
việc đã quen dùng, là không nên đổi, thế thì cả mọi việc hủ-bại kém hèn của xã
hội ta, bấy lâu quen dùng đi rồi, cũng không nên đổi ra văn-minh tiến-bộ nữa
sao? Như vậy thì tiến-hóa sao đặng?
Bởi
vậy chúng tôi trông mong rằng những cái danh-từ ta vẫn dùng lầm dịch sai từ hồi
nào đến giờ, nay mai sẽ có cái Văn-học-hội (Académie de Lettres) để sửa sang
lại cho đúng, vì sự lợi ích cho tiếng Việt-nam và người Việt-nam.
Từ thị-sự
vẫn được dùng cho đến năm 1932 như trong tòa xử một cai sở cao su và nhiều
người Thổ (Cao Miên) đã giết chết một cu li An Nam mà báo Sài-Thành
(18/10/1932) cho biết là có hai ông, ông Nepveur và ông Đỗ-hữu-Trí, làm thị-sự.
Những người bồi thẩm (hay thị sự) là những người dân thuộc tầng lớp nào mà tòa
kêu đến để làm bồi thẩm? Đa số họ là những người đã được biết đến là thân Pháp
như trường hợp như trên ông Đỗ Hữu Trí, con của ông đốc phủ sứ Đỗ Hữu Phương
trong phiên tòa như trên.
Nhưng
cũng có trường hợp các ông thị sự được chọn không biết tiếng Pháp nên khó mà
hiểu được sự tình. Trong một phiên tòa đại hình xử vụ người Việt đầu tháng 8
năm 1931, hai bồi thẩm (thị sự) người Việt không biết tiếng Pháp ngồi cạnh quan
tòa, nên trạng sự biện hộ, ông Trình Đình Thảo, đã bực tức yêu cầu với tòa là
từ rày sắp tới khi chọn bồi thẩm người Việt hãy lựa người nào biết nghe và nói
được tiếng Pháp để ban cho trách nhiệm quan trọng này. Yêu cầu của ông Thảo
(PNTV, 6/8/1931) rất có lý ai cũng đồng ý, ngay cả quan chánh tòa và phó Chưởng
lý cũng cho là phải và hứa là xin sửa đổi sự lựa chọn bồi thẩm người Việt lại.
Trong số những luật sư người Việt, ông Trịnh Đình Thảo là
một luật sư được tiếng là giỏi có nhiều khả năng bào chữa cho nhiều bị cáo
người Việt ở tòa đại hình Saigon. Ông Thảo là luật sư tiến bộ, sau này ông Thảo
đã bào chữa cho các ông Nguyễn An Ninh, Tạ-thu-Thâu và có tham gia Đông Dương
Đại Hội năm 1936.
Nguyễn Đức Hiệp
Tham
khảo
1. Saì-Thành, 26/12/1930, 3/1/1931, 29/9/1932
Saigon 8/2/1936, 21/2/1936, 28/5/1936, 29/5/1936,
2/6/1936, 23/4/1937, 24/4/1937, 26/4/1937, 29/4/1937, 30/4/1937, 2/5/1937,
5/5/1939, 21/5/1935, 21/6/1935, 25/6/1935, 26/6/1935, 28/4/1938, 4/5/1938,
6/2/1939, 14/10/1939, 10/4/1940
2. Tràng An, 17/5/1935, 21/5/1935, 20/5/1938,
24/5/1938, 18/3/1939, 13/6/1939
3. Công Luận báo, 1/2/1937, 10/7/1937, 25/11/1937,
2/5/1939, 3/6/1939, 24/6/1939
4. Cờ Giải phóng, 7/10/1945.
5. Hồ Hữu Tường, Học Thiệt (tùy bút), Văn, số 46,
15/11/1965
6. Kịch Bóng, 26/8/1937
7. Écho Annamite, 30/12/1920, 13/1/1921, 22/10/1924,
28/10/1924, 28/4/1925, 13/9/1925, 24/4/1926, 30/10/1926, 3/3/1927, 8/10/1929,
11/10/1929, 28/12/1929, 19/7/1930, 10/2/1931, 20/3/1931, 23/4/1931, 31/3/1939,
18/10/1939, 25/11/1940
8. R. Smith, Bui Quang Chieu and the Constitutionalist
Party in French Cochinchina, 1917-30, Modern Asian Studies, 2:131-150, 1969,
Cambridge University
9. Hue-Tam Ho Tai, Radicalism and the origins of the
Vietnamese Revolution, Harvard Unviersity Press, 1996
10.
Thời vụ, 20/5/1938. 7/3/1939
11.
Ngày Nay, 24/6/1939, 8/7/1939
12.
Hà Thành ngọ báo, 17/5/1935, 25/6/1935
13.
Kim Lan, Các Giải Văn Chương ở miền Nam trước 1945.
14.
Sông Hương, 26/8/1037
15.
Tự Do, 21/1/1939
16.
Christoph Giebel, Telling life : An approach to the official
biography of Ton Duc Thang, in Essays into Vietnamese past edited
by K. Taylor, J. Whitmore, Cornell University, 1995.
17.
Philippe Peycam, The birth of Vietnamese political
journalism, Saigon 1916-1930, Columbia University Press, 2012.
18.
Phụ Nữ Tân Văn, 3/7/1930, 4/6/1931, 18/6/1931, 25/6/1931, 2/7/1931,
9/7/1931, 23/7/1931, 30/7/1931, 6/8/1931, 1/10/1931, 2/10/1931, 7/7/1932.
19.
L'Indochine, revue économique d'Extrême-Orient, 5/10/1931
(a) Mai :
tháng 5 dương lịch
(b) “ Cái đêm hôm ấy đêm gì ?© lấy từ tác phẩm Cung
oán Ngâm khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều sáng tác ở thế kỷ 18
kể về người cung nữ tưởng nhớ lại đêm vui với vua. Tương tự như câu “ Đêm
qua là cái đêm gì ? ” nói về đêm hạnh phúc giữa Tú Uyên và Giáng Kiều
trong truyện thơ nôm Bích câu Kỳ ngộ dịch ra từ tác phẩm chữ Hán cùng tên của
Đoàn Thị Điểm, sống cùng thời gian với Ôn Như Hầu. Ở dây tác giả Như Hoa lại
nói đến “ Cái đêm hôm ấy đêm gì ? ” để chỉ đêm sợ hãi thay vì
hạnh phúc. Nửa thế kỷ sau, năm 1988, năm trước đổi mới, tác giả Phùng Gia Lộc
cũng dùng “ Cái đêm hôm ấy đêm gì ?“Cái đêm hôm ấy đêm gì ?” lấy từ tác
phẩm Cung oán Ngâm khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều sáng tác ở thế kỷ 18 kể
về người cung nữ tưởng nhớ lại đêm vui với vua. Tương tự như câu “Đêm qua là
cái đêm gì ?” nói về đêm hạnh phúc giữa Tú Uyên và Giáng Kiều trong truyện thơ
nôm Bích câu Kỳ ngộ dịch ra từ tác phẩm chữ Hán cùng tên của Đoàn Thị Điểm,
sống cùng thời gian với Ôn Như Hầu. Ở dây tác giả Như Hoa lại nói đến “Cái đêm
hôm ấy đêm gì ?” để chỉ đêm sợ hãi thay vì hạnh phúc. Nửa thế kỷ sau, năm 1988,
năm trước đổi mới, tác giả Phùng Gia Lộc cũng dùng “ Cái đêm hôm ấy đêm gì
? ” như Như-Hoa của tờ Saigon để chỉ đêm hãi hùng ở nông thôn thời bao
cấp.
(c) Ý nói Xô viết Nghệ Tĩnh
(d) Cò mật thám Legrand bị Lý Tự Trọng bắn chết khi định bắt một diễn
giả của đảng cộng sản, ông Phan Bôi, đang diễn thuyết trước sân đá banh
Lazarotte nhân dịp lúc khán giả xem đá banh ra về.
(e) Thánh Jeanne d'Arc là vị nữ anh hùng của Pháp đánh quân Anh và
ngày đình chiến 11 tháng 11 kỷ niệm chiến tranh thế chiến thứ nhất chấm dứt
ngày 11/11/1918.
(f) Kiểm kê.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét