Trở lại với khách sạn Continental mà tôi có nói đến trong bài về con đường Catinat - Tự Do ở phần trước và để trước khi vào bài dưới đây tôi có vài dòng giới thiệu về khách sạn này từ trong bài Saigon hotel Continental.
Khách sạn này được Pierre Cazeau xây dựng vào năm 1878 - 1880. Sau đó Khách sạn Continental Palace đã được thay đổi hoàn toàn vào năm 1892 do ông Grosstephan, cựu giám đốc và chủ sở hữu của Chevet, nhà hàng lâu đời nhất và có uy tín nhất ở Paris nằm gần Palais Royal. Tất cả các khách-phòng được trang bị tiện nghi nhất có thể, và mỗi người ta có bồn tắm và vòi sen riêng phòng của mình, trong đó khách có thể sử dụng tại bất kỳ thời gian trong ngày hay đêm.
Một đầu bếp hạng nhất đã được bổ nhiệm vào đây. Một người thợ làm bánh người Pháp xuất sắc chuyên làm bánh, kem và sorbets hàng ngày. Hầm rượu vang của ông Grosstephan là một trong những hầm tốt nhất tại Phương Đông.
Kể từ ngày 26 tháng 3 năm 1898 điện đã được lắp tại nhà hàng và trong tất cả các phòng khách và các phòng liền kề. Điện thoại được đặt trong phòng đọc sách, nơi người ta có thể tìm thấy phần lớn báo chí Pháp và nước ngoài, cũng như báo hình. Điện tín hàng ngày chính thức, đến từ Pháp, được thông báo mỗi ngày. Danh sách hành khách đến cảng Sài Gòn từ mỗi chuyến tàu được liệt kê trong phòng thông báo.
Năm 1911 ông Grosstephan sang lại khách sạn này cho công tước De Montpensier. Sau cái chết của công tước, khách sạn thuộc về sở hữu của ông Ange FRASSETO và Eugène SICÉ.
Năm 1931 ông Franchini mua lại khách sạn trong một cuộc đấu giá của công
ty các khách sạn lớn Đông Dương do ông Ange FRASSETO rao bán với giá
là 165.000 piastres vào lúc 9 giờ ngày 15 tháng 1 năm 1931.
Năm 1965, Người con là Phillipe Franchini thừa hưởng khách sãn này cho đến năm 1975.
Montag, 21. April 2014
Khách Sạn CONTINENTAL Tại SÀIGÒN
Continental Saigon, Philippe Franchini,
Olivier Orban 1976
Từ thập niên 1880 đến
cuối Thế Chiến II, cuộc chinh phục của thực dân đã xác định các trục du lịch
hải ngoại và từ đó địa dư của các đại khách sạn (“Các Cung Điện Phương Đông:
Palaces d’Orient” 1 tại các thuộc địa của Anh và Pháp ở
Đông Phương. Giống như Khách Sạn Raffles tại Singapore, Peninsula tại
Penang, và Grand Hotel tại Calcutta, Khách Sạn Continental tại Sàigòn đã hợp lý
hóa sự du lịch tại các thuộc địa và khắc họa “tính Âu Châu” bằng sự thoải mái,
tiện lợi và biện biệt. Ngày nay, sau nhiều năm lãng quên, khách sạn
Continental truyền thoại trên đường Catinat một lần nữa hiển thị trên bản đồ du
lịch của thành phố Sàigòn. 2 Như các bài phê bình của
Norindr (1996) và Peleggi (1966) đã vạch ra, “các cơn buồn nhớ thuộc địa” hay
“nỗi hoài niệm thuộc địa” đã uốn nắn nhiều khía cạnh của văn hóa tiêu thụ toàn
cầu đương đại, bao gồm thức ăn, thời trang và chiếu bóng (cinema). Vì thế
không có gì ngạc nhiên rằng trong một thời đại hậu đổi mới [tiếng
Việt trong nguyên bản, chú của người dịch], Continental Hotel, giống như các
khách sạn thời thuộc địa khác, đã được “đền đài hóa”(Peleggi, 2005) cho sự tiêu
dùng du lịch, đã được tái nâng cấp về mặt kiến trúc và bàu không khí “đặc sắc
thời thực dân” đã được tái tạo nhằm lôi cuốn giới du khách tìm kiếm sự hoài
niệm thời thuộc địa trong thế kỷ thứ hai mươi mốt. 3 Bài
viết này đi lùi lại một bước trong thời gian và tái bố trí đại khách sạn này
vào một kỷ nguyên khi mà định chế thuộc địa này đã không chỉ phát động kỹ nghệ
du lịch tại Đông Dương mà còn tiêu biểu cho sự đan kết vào nhau một cách phức
tạp giữa du lịch và khát vọng thực dân. 4
Lịch Sử Khách Sạn
Continental tại Sàigòn
Khách Sạn Continental được xây cất bởi Pierre Cazeau trong năm 1880, và mau
chóng trở thành một thắng tích quan trọng trong xã hội thực dân của Sàigòn cũng
như trên bản đồ du lịch của vùng Đông Dương thuộc Pháp. 5
Khách sạn đã qua tay nhiều chủ nhân trước khi Mathieu Franchini mua nó trong
năm 1930 để trở thành sở hữu chủ một phần rất quan trọng của “lịch sử Sàigòn”
[l’histoire de Saigon, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch]
(Franchini, 1995, trang 42). Ông đã điều hành khách sạn trong chuỗi ngày
cực thịnh của nó trong suốt thập niên 1930 cho đến khi có sự thất trận quân sự
của Pháp tại Điên Biên Phủ hồi năm 1954.6 Vào khoảng thập niên
1960, khi Philippe, con trai của ông Mathieu Franchini quay trở lại từ Pháp để
nắm giữ sự điều hành khách sạn, sự hiện diện của các binh sĩ Hoa Kỳ và ảnh
hưởng của đồng mỹ kim đã biến đổi Sàigòn thành “thành phố của xe gắn máy Honda”
(Hondaville) và “sự lạ lẫm của thuộc địa” mà Continental tượng trưng đã trở nên
một điều lỗi thời. “Khiêu vũ”, quán cà phê và các chuyện tình hợp chủng vụng
trộm của một thời đã qua đã bị thay thế bởi các quán rượu (bars), ma túy và
trao đổi xác thịt công khai. Khách sạn đã vọt ra khỏi bàn tay kiểm soát
của gia đình vào lúc kết thúc cuộc chiến tranh. 7
Mathieu
Franchini, chu nhân của Khách sạn Continental từ năm 1930
Continental Saigon, Philippe Franchini, Olivier Orban 1976
Không sự tường thuật nào về
Sàigòn thời thực dân trong các câu chuyện kể của các du khách, các tiểu sử,
tiểu thuyết hay truyện ngắn lại được xem là trọn vẹn bao giờ nếu không có một
sự mô tả về Khách Sạn Continental. Các sự miêu tả này cấu thành một danh
mục đáng chú ý về các kinh nghiệm đã cùng nhau thể hiện phương cách mà đại
khách sạn được xây dựng như một định chế văn hóa xác định cá biệt đã giới thiệu
tình hiện đại của Âu Châu và các thói tục hưởng nhàn đến các thuộc địa nhằm
phát huy và tái khẳng định nền văn hóa cao cấp và căn cước đế quốc Âu
Châu. Xuyên qua một sự thẩm duyệt các sự trình bày về Continental trong
văn chương, cuộc nghiên cứu này khảo sát làm sao mà khách sạn truyền thoại này
tại Sàigòn thuộc địa đã cấu thành một địa điểm phức hợp, nơi mà các sự đàm luận
về chủ nghĩa thực dân, tính hiện đại và sự hưởng nhàn đan chéo vào nhau để tạo
ra một “điểm tham chiếu trác tuyệt [đã] tổ chức và thích nghi một khu vực ấn định
bằng việc xác định tất cả các địa điểm khác liên quan đến nó” (Van den Abbeele,
1992, trang xviii).
Cảnh Trí Đô Thị Của Khách Sạn Continental tại Sàigòn
Au passage, je
reconnais la masse sombre de la cathédrale … indifferent aux fluctuations du
temps. Voici la poste central … au fronton de la bâtisse, une horloge
géant continue à marquer l’heure. Puis voice la fameuse rue Catinat,
devenue rue de la liberté après la colonization franҫaise et rebaptisée aujourd’hui rue Đồng
Khởi. Jadis elle était bordée de cafés chics et de bars renommés don’t
celui de très célèbre hotel Continental. On y côtoyait les femmes les
plus élégantes de Saigon (Lefevre, 1995, các trang
141-42). 8
Trên đường đi, tôi
nhận thấy khối kiến trúc mang màu sậm của ngôi thánh đường, bất biến trước các
sự thay đổi của thời gian. Đây là Bưu Điện Trung Ương … trên bức tướng
chính diện của tòa nhà, một chiếc đồng hồ khổng lồ vẫn tiếp tục chỉ giờ.
Kế đó, là con đường Catinat nổi tiếng, đã biến thành đường Tự Do sau khi chế độ
thực dân Pháp cáo chung, và được đổi tên ngày nay là đường Đồng Khởi.
Trước đây, hai bên đường đã mọc lên các tiệm cà phê sành điệu và các quán rượu
nổi tiếng, trong đó vang danh nhất là quầy rượu tại Khách Sạn
Continental. Người ta thường giao thiệp với những phụ nữ thanh lịch nhất
của Sàigòn ở đây.
Trong
khi kẻ lưu vong quay trở lại, tác giả Kim Lefevre, lái xe khắp Sàigòn, bà ta
nhớ lại thành phố mà bà đã bỏ ra đi 30 năm trước đó. Những suy tưởng của
bà tái tạo cảnh trí đô thị thời thực dân với ngôi Thánh Đường, trụ sở bưu điện,
các đường phố thương mại và các quán café kiểu Pháp. Khách Sạn
Continental này là một phần của tấm bưu thiếp thuộc địa được tái dựng và kết
hợp giống như các kiến trúc công cộng khác. Thánh Đường, với sự lãnh đạm
sắt đá trước các lịch sử xã hội thay đổi được nhìn với sự chua chát, cũng như
chiếc đồng hồ khổng lồ của trụ sở bưu điện, vẫn tiếp tục chỉ giờ, xuất hiện như
các sự nhắc nhở cụ thể về một quá khứ thuộc địa “đậm màu”. Các đường phố
chính được đổi tên để xóa bỏ sự liên hệ thực dân, nhưng chính sự hiện diện liên
tục của khách sạn Continental lại khiêu gợi đầy nhớ nhung về một thời đã qua
của vẻ thanh nhã của đế quốc và các lối sống hào phóng.
Giống
như phần lớn các thủ đô thuộc địa, cảnh trí đô thị của Sàigòn đã phát triển
chung quanh trung tâm quân sự và hành chính khi các tòa nhà cư trú, các công
trình tôn giáo, và các địa điểm thương mại bắt đầu phủ kín thành phố một cách
rất mau chóng. Trong nhiều năm sau khi các người Âu Châu đầu tiên đến
định cư trong vùng, các tòa nhà nhỏ bằng gỗ bên ngoài thành trì đã cung cấp các
quán cà phê, nhà ở và các văn phòng kinh doanh cho người Âu Châu. Trong
cuộc nghiên cứu của mình về tình trạng đô thị của thuộc địa Pháp, tác giả
Gwendolyn Wright ghi nhận rằng mãi đến năm 1865, một sự thiết kế mới được lập
ra cho trung tâm đô thị của Sàigòn. Sự phát triển đô thị có tổ chức trùng
hợp với sự vươn cao mau chóng về thương mại và sự phân chia các đặc nhượng miễn
phí cho các người Âu Châu (Wright, 1991, trang 17). Nhà Thờ Đức Bà và dinh
Toàn Quyền được xây dựng trong năm 1866. Tòa Án Tư Pháp, Sở Quan Thuế, và
Tòa Thị Chính [Hôtel de Ville, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch]
với đầy những đường nét của kiểu kiến trúc Baroque, là các thí dụ về các công
thự thế kỷ thứ mười chín trang trí công phu, không chỉ để khẳng quyết quyền lực
thực dân mà còn để thiết lập tính phổ biến của các hình thái kiến trúc Pháp và
các khái niệm về cái đẹp. Tác giả Wright lập luận rằng nếu kiến trúc dân
sự tại các thuộc địa đã phản ảnh một ấn tượng vể thẩm quyền, đó là bởi vì tình
trạng bất ổn định của chính quyền Pháp đã khuyến khích các hành vi đòi hỏi hão
huyền (Wright, 1991, trang 166).
Khi
thương mại thuộc địa nở rộ, các khách sạn, nhà hàng, và cửa hiệu xuất hiện dọc
đường Catinat tại Sàigòn. Các chuyên viên đô thị thuộc địa và các nhà
thiết kế thành phố đã tin tưởng rằng sự tiếp xúc giữa các chủng tộc phải được
tổ chức, thanh lọc, và hợp lý hóa (Wright, 1991, trang 221). Hậu quả,
thành phố đại diện cho các lý tưởng của họ về trật tự, sự sạch sẽ, sự cách biệt
không gian và hệ cấp. Chính trên cảnh trí đô thị như thế mà Khách Sạn
Continental đã xuất hiện trong năm 1881. Khách Sạn Continental tọa lạc
giữa các bến tàu và Thánh Đường, đứng bên bờ mỏm đất và trông xuống dòng
sông. Địa điểm của nó đối diện với Esplanade [khoảng đất dạo chơi nằm
giữa tòa thành quân sự và thành phố, chú của người dịch], (nơi nhà hát thành
phố sẽ được xây cất lên vào năm 1911) làm gia tăng một cách đáng kể cho sự
thành công và được ưa chuộng của nó. Khách sạn, giống như tất cả
các kiến trúc Âu Châu trong thành phố, được mở ngỏ hướng ra bên ngoài trong một
dáng điệu tin tuởng nơi tinh thần mạo hiểm của thực dân:“Comme toutes les
constructions colonials de l’époque, le Continental était ouvret sur
l’extérieur” (Franchini, 1995, trang 43). Cùng lúc, khi một
trung tâm thương mại tùy thuộc vào các nguồn nhân và vật lực địa phương và
chính quốc cho sự điều hành và các dịch vụ thường ngày của nó, Continental cũng
đã thu gom lại với nhau nhiều bộ phận khác biệt của xã hội thuộc địa: các người
ngoại quốc, các dân định cư, 9 các nhà hành chính, các kẻ
phiêu lưu và các nhà mậu dịch, các “con gái” và các “bà đầm” [“congaies”
và “ba dams” trong nguyên bản, nửa tiếng Việt, nửa tiêng Pháp, chú
của người dịch], các cậu bồi, “boyesses” [trong nguyên bản ghi từ ngữ
“boyesses” này đàng sau từ “boys” các thiếu niên hầu bàn”, không rõ nghĩa
hay chi để phụ chú thêm cách viết nửa tiếng Anh nửa tiếng Pháp của tác giả, chú
của người dịch], các đầu bếp và các thông dịch viên, thành một cơn lốc xoáy đô
thị vi mô phức tạp. Tuy nhiên, điều mà khách sạn đại biểu quan trọng nhất
chính là một địa điểm ban cấp đặc ưu quyền được lười biếng, hưởng lạc và nghỉ
ngơi. Điều đáng để ghi nhận rằng với “bàu không khí gia đình thân mật” [“air
de familiarité”, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch], nó được
xem bởi các khách lữ hành tinh tế là khác biệt bao la với các khách sạn ở các
thuộc địa của Anh Quốc (Franchini, 1995, trang 43).
Phần
lớn các khách lữ hành đến Đông Dương khởi sự sự hồi niệm của họ về Sàigòn với
một cái nhìn từ “nền nhà đắp cao” [“terrasse”, tiếng Pháp trong
nguyên bản chú của người dịch] của khách sạn Continental. Tôi giải thích
dưới đây sự chuyển nghĩa (trope) trong khi thuật chuyện được lập lại nhiều lần
này, theo khái niệm của Mary Louise Pratt (1992) về “các sự mô tả mỏm đất”
(promontory descriptions). Trong phần kế tiếp, tôi xem xét sự biểu
trưng của khách sạn xuyên qua lăng kính của các tập tục hưởng nhàn và tính hiện
đại. Sau cùng, tôi nghiên cứu làm thế nào mà các khách sạn, tọa lạc tại
các nơi chốn mà các sự lo âu về thuộc địa thường được cảm nghiệm một cách mạnh
mẽ, đã biến thể để trở thành các “lò sưởi (mái ấm gia đình)”
[foyers, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] thân thuộc, hay oikoi [oikos,
danh từ số ít trong tiêng Hy Lạp, để chỉ đơn vị căn bản của xã hội tại phần lớn
các thành phố-quốc gia ở Hy Lạp cổ thời, bao gồm chủ oikos, thường
là người đàn ông lớn tuổi nhất, gia đình của người chủ oikos(vợ và
các con), và các nô lệ cùng sống trong khung cảnh một ngôi nhà gia
đình. Oikoi lớn hơn, cũng có các nông trại thường được
chăm sóc bởi các nô lệ, cũng là đơn vị nông nghiệp căn bản của nền kinh tế cổ
xưa, chú của người dịch, theo Wikipedia] trong sự tưởng tượng của khách
lữ hành. Tôi lập luận rằng các cơ sở này chủ yếu vẫn còn là “các mỏm đất
đặc ưu quyền” và các “oikoi biệt lập” là nơi mà khách lữ hành Âu
Châu có thể lựa chọn để quan sát hay tương tác với không gian của kẻ khác trong
sự an toàn tương đối.
Khách Sạn Continental
Như Mỏm Đất
Trong
sự khảo sát của mình về các đoạn văn mô tả nơi các tác phẩm du hành hồi thế kỷ
thứ mười chín, tác giả Pratt lập luận rằng tác giả viết về du hành giống như
một họa sĩ bằng miệng tạo ra một biến cố từ chuyện không phải là biến cố, xuyên
qua sự sử dụng các sự mô tả mỏm (hay mũi) đất hay điều mà bà ta gọi là “vị chúa
tể của tất cả các phong cảnh mà tôi khảo sát”. Ám chỉ đến các sự mô tả
trong các tác phẩm của Sir Richard Francis Burton về Phi Châu, bà nhận thấy
hình thức viết thành văn bản (textualisation) này như một hành vi tạo ra
ý nghìa với chủ ý làm đẹp khi nó sắp xếp phong cảnh, tiêm tỷ trọng và nội dung
vào trong đó (bằng việc tham chiếu đến điều thân thuộc), và khẳng định một
tương quan chủ động giữa người ngắm nhìn và những gì được nhìn thấy. Quan
trọng nhất, tát giả bổ túc rằng quang cảnh được sắp xếp liên quan đến một lợi
thế. Người quan sát tọa lạc nơi đó như thế đang ở vào một vị thế sở
hữu và lượng định quang cảnh bằng thị giác. Đối với du khách/người quan
sát các phẩm chất thẩm mỹ của cảnh trí phản ảnh giá trị xã hội của sự “khám
phá”, trong khi các khiếm khuyết thẩm mỹ làm liên tưởng đến nhu cầu cần sự can
thiệp xã hội của văn hóa quê huơng (Pratt, 1992, các trang 205-06).
Trong
khung cảnh nghiên cứu của chúng ta, Continental trên thành lợi điểm “vĩ đại” từ
đó con mắt đế quốc quan sát cảnh trí đô thị. Lartéguy nhận thấy:
Le Continental est
ancré rue Catinat à mi-chemin du Plateau òu se dressaient la Cathédrale, le
palais Norodom avec ses fastes coliniaux-et du port avec ses grandes maisons de
négoce, ses quais òu s’entassaient les richesses de la colonie, le caooutchouc,
les bois précieux et le riz. (Lartéguy, trích dẫn từ quyển Palaces
et grands hotels d’Orient, 1992, trang 60). 10
Khách sạn Continental
đặt nền trên phó Catinat, giữa đường từ Mặt Phẳng nơi Thánh Đường mọc lên, dinh
Norodom với sự tráng lệ thực dân của nó, và hải cảng với các tòa nhà thương mại
cao tầng, các cầu tàu nơi chất đầy cao su, gỗ quý và gạo, các sản phẩm quý báu
của thuộc địa.
Thả
neo vững chắc trong không gian quan sát của quyền lực chính trị và đạo đức của
các kẻ thực dân (biểu trưng bởi Thánh Đường và dinh Thống Đốc), và sự thành
công kinh tế của đế quốc (đại diện bởi hải cảng), du khách/người đứng nhìn từ
khách sạn/mỏm đất ở vào một vị trí để suy tưởng về giá trị văn hóa quan trọng
của sự khám phá của mình. Dần dần, khi mỗi du khách ngang qua góp phần
vào hành vi tạo thành ý nghĩa này bằng việc sắp xếp cảnh trí đô thị bao quanh
với một cái nhìn chăm chú khẳng định một tương quan chủ động giữa người ngắm
nhìn và những gì được nhìn thấy, bức ảnh bình thường đã được biến thể thành một
huyền thoại. Tòa nhà trong các bản tường thuật đầu tiên, được nói đến như
một khách sạn vô danh trên đường Catinat, dần dần biến thể thành Le Continental
(Khách Sạn Đại Lục), gợi lên một ý tưởng rất xác định về một lối sống đế quốc.
Trong
sự mô tả của ông về Đông Dương nơi quyển Antimémoires, tác giả
André Malraux đặt cạnh nhau các hình ảnh phân cách của “Con Đường Hoàng Cung”
(Voie royale) trong truyền thuyết cùng các phế tích của các pho tượng
Khmer, Hoàng Hậu Sheba trong huyền thoại bên cạnh một Mayrena tai tiếng, ông vua
xứ dân Sedangs [roi des Sedangs, tiêng Pháp trong nguyên bản,
chú của người dịch]. Một cách nhiều ý nghĩa, sự tại cấu trúc trên văn bản
“bảo tàng viện tưởng tượng về các truyền thuyết”[musée imaginaire de
legends, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] bao gồm cả một sự
hình dung về “l’heure verte à la terrasse du Continental quand le bref soir
tombait sur les caroubiers, sur les victorias qui se croisaient rue Catinat
dans le bruit de leurs grelots …” (Malraux, 1967, các trang 380-381) “…giờ
màu xanh lục trên nền nhà đắp cao của Continental khi các buổi chiều ngắn
thường đổ xuống các cây carob [cây đậu hạt dẹt, dài, thuộc giống Ceratonia
silique, còn gọi là St. John’s bread, carob bean, và agarroba,
chú của người dịch], và các cỗ xe ngựa thường băng qua đường Catinat trong
tiếng chuông của chúng”. 11Người ta không thể làm gì khác
hơn việc quan sát xem sự khêu gọi của Malraux gần sát với một bức ảnh chụp như
thế nào. Thời gian ngưng đọng lại ở “l’heure verte; giờ màu xanh lục ”.
Màu xanh lục diễn tả sự hiện diện của cây cỏ bao quanh nhưng loại trừ mất sự
hiện diện của các người khác, dân địa phương và các người ngoại quốc. Ban
đêm thì ngắn tại vùng nhiệt đới nhưng sự ngắn ngủi của nó được đền bù bởi bản
chất tái diễn của biến cố được mô tả: “các cỗ xe ngựa băng ngang qua đường
Catinat”. Hai hình ảnh riêng rẽ, một hình ảnh tĩnh chồng lên một hình ảnh
động, làm gia tăng sự cô đơn đế triều của một Malraux đang quan sát. Ở
một mức độ khác, cả Khách San Continental lẫn thành phố đều được tách ra khỏi
bối cảnh của các quan hệ văn hóa-xã hội chính yếu của chúng, và được đặt lại
vào bối cảnh dành riêng cho các sự tương đương về thẩm mỹ của chúng với các đối
tượng khác – nơi đây, là “giờ xanh lục” và “âm thanh từ chuông của con ngựa kéo
xe”. Như thế, hình ảnh của Continental có thể bước vào “bảo tàng viện
tưởng tượng về các truyền thuyết” cùng với “con đường hoàng cung”, Hoàng Hậu
Sheba trong huyền thoại và vua Mayrena tai tiếng.
Lartéguy đi thêm một bước xa hơn để huyền thoại hóa cả khách sạn lẫn “khách lữ
hành khu biệt” là kẻ mà sự du hành là một chức nghiệp và một lối sống.
Ông vạch ra rằng: “Nous avons habité ces hotels de legende dont les
noms chantent dans le souvenir de tous ceux qui firent du voyage un métier et
un mode de vie” (Lartéguy, trích dẫn từ quyển Palaces et
grands hotels d’Orient, 1992, trang 59).
Cấu trúc vật chất của khách sạn đã góp
phần khổng lồ vào sự xây dựng huyền thoại này. Trong quyển tự truyện của
Philippe Franchini, hình thức kiến trúc của khách sạn được tiêu biểu như điều
gì đó tượng trưng cho sự ổn định và tính khẳng quyết của thuộc địa.
Une manière de
manifester dans l’architecture la confidance que l’on accordait à la foi
colonisatrice. Non seulement le hall d’entrée débouchait de plain-pied
sur le trottoir, mais on avait ouvert le rez de chaussée pour en faire une
vaste galerie. Car le Continental ressemblait bien à un bateau, son
architecture, fraichement débarquée des navires, restait imprégnée de
l’atmosphère des coursives et des ponts (Franchini,
1995, trang 43). 12
Một cách thức biểu lộ
sự tin tưởng mà người ta mang trong mình về sứ mạng thực dân thể hiện xuyên qua
cách kiến trúc. Không chỉ lối vào được mở ra ở cùng độ cao của vệ đường,
sàn tầng trệt cũng mở ngỏ hướng ra ngoài làm cho nó giống như một phòng triển
lãm mênh mông. Bởi Continental trông gần giống như một chiếc tàu, các cấu
trúc của nó, vừa được bốc dỡ từ các chiếc tàu còn tràn ngập hương vị của boong
tàu và các lối đi.
Khách
sạn được xây cất để mở ngỏ ra bên ngoài với một lối ra vào được xây ở cùng độ cao
của con đường đàng trước nó. Khách lữ hành cảm thấy giống như nhà thám
hiểm đầu tiên tìm được sự khám phá tiên khởi từ lợi thế giống như con tàu
này. “Sàn nhà đắp cao mở ra trên đường Catinat và vào cảnh trí đô thị của
Sàigòn mang lại ảo tưởng của “việc ngắm nhìn” từ một khoảng cách xa và cùng lúc
cho phép khả tính của sự vươn ra ngoài và hướng đến nó.
Bà Mathieu Franchini, con gái của Đốc Phủ
Sứ Mầu,
quan tỉnh Mỹ Tho,chủ nhân của
Continental Hotel từ năm 1930
Doren Massey lập luận rằng không
gian không phải là một chiều kích độc lập và tuyệt đối mà được kiến tạo bên
ngoài các quan hệ xã hội. Một cấu hình không-thời gian của các quan hệ xã
hội hàm chứa một thế giới đã sống qua của nhiều tầng không gian chồng lên nhau,
cắt ngang, sắp thẳng hàng với không gian khác hay hiện hữu trong các quan hệ
của sự nghịch lý và đối chọi (Massey, 1993, trang 66). Khách sạn, tự thân
ghép mình vào trong một mạng lưới phức tạp của các định chế thực dân về quyền
lực và lạc thú, thúc dục khách lữ hành hành động như thế, để hội nhập một cách
mau chóng vào các quan hệ xã hội và chính trị xác định chính sự hiện hữu của
nó. Chính vì thế, con đường Catinat với các lực lượng thương mại, chính
trị và văn hóa của nó trở thành một sự nối dài tự nhiên của đại khách sạn, và
qua sự ám chỉ, Khách Sạn Continental được biến thể thành một Saigòn tưởng
tượng. Vai chính (protagonist) của tác giả Jean Star ghi nhận:
Saigon, Neuf heures du
soir – la rue Catinat … Au trot vif des minuscules attelages malais passent les
promeneurs blancs, tout blancs, plus blancs encore dans la lumière
électrique (Star, 1902, trang 21). 13
Sàigòn, 9 giờ tối –
phố Catinat … Các người da trắng, toàn trắng, và còn trắng hơn nữa dưới ánh đèn
điện khi họ đánh nước kiệu đi qua một cách mau lẹ trong các cỗ xe được kéo bởi
các con ngựa Mã Lai của họ.
Khách
lữ hành-người quan sát, được tái bảo đảm bởi sự khám phá một Sàigòn “da trắng”,
văn minh, phác họa các khía cạnh đó của phong cảnh khẳng định hệ cấp của người
nhìn trên những gì được nhìn thấy, được hình dung nơi đây qua hình ảnh các
chiếc xe kéo bản xứ “tí hon” và sự hiện diện mọi nơi của người Âu Châu.
Màu trắng áp đảo trừ khử bất kỳ sự hiện diện nào của các phần tử da màu trong
cảnh tượng.
Người
lữ hành trong quyển Les Civilisés của Claude Farrère còn công
khai hơn trong hành vi tạo lập ý nghìa của ông ta về sự đại diện, tái xác định
sự hiên diện áp đảo của các tập tục Âu Châu (phóng túng và trơ trẽn: free and
imprudent) tại một thành phố được định hình bởi “sự thô lỗ trịch thượng”
(patronizing rudeness) (“insolence bienveillante”) của các thực dân Pháp:
Rue Catinat, c’est
l’agitation mondaine, correcte et quand même admirablement libre et impudente,
parce que la loi souveraine du pays et du climat primeles moeurs
importés. Il y a des gens de tous les pays. Européens, Franҫais surtout, coudoient l’indigène avec une
insolence bienveillante des conquérants (Farrère,
1919, trang 10). 14
Phố Catinat, một sự nhộn
nhịp hợp thời trang, thích đáng song phóng túng và trơ trẽn một cách đáng
ngưỡng mộ, bởi luật tối thượng trong vùng và bàu khí hậu của nó dành đặc ưu
quyền cho các phong tục ngoại quốc. Có các người đến từ mọi nước. Các
người Âu Châu, chính yếu là người Pháp, giao tiếp với dân bản xứ với một sự
“thô lỗ trịch thượng” của các kẻ chiến thắng.
Khách sạn phục vụ như kẻ
trung gian giới thiệu các khách lữ hành với các thú vui của Sàigòn. Các
khách lữ hành đã đến hải cảng xa xôi này sau gần một tháng di chuyển.
Trong khi mỏi mệt nếu họ là các người định cư, hay bị kích động hoang mang nếu
là các khách lữ hành lần đầu tiên, khách sạn là công cụ trong việc phục hồi các
chất liệu thể chất và xúc cảm tàn tạ của họ. Như người con trai của vị chủ
nhân ghi nhận trong tập tự truyện của mình, chính ý tưởng của ông Mathieu
Franchini là muốn du nhập sự vui tươi và tinh tế của Paris vào một khung cảnh
thuộc địa xa xôi: “Il fallait de la gaité, du chic” (Franchini, 1995,
trang 101). Trong quyển Aile du feu của tác giả
Jeanne Leuba, nhân vật Franҫoise đến Sàigòn với thân
xác kiệt quệ bởi cuộc du hành và xúc cảm khô cạn. Sàigòn đúng là một trạm
ngừng chân trước khi cô ta đi xa hơn về các địa phương để bắt đầu một đời sống
mới như một kẻ di dân. Khách sạn và phố Catinat mang lại cho cô ta một
nơi chốn để nghỉ ngơi và vượt thoát: “Rue Catinat nous rions, et devant
l’hôtel nous descendons en gaité” (Leuba, 1920, trang 62). 15 “Phố
Catinat, chúng tôi tươi cười và bước xuống đường một cách sung sướng, ngay phía
trước khách sạn”.
Sàigòn được hình dung này
phản ảnh sự thành công của sứ mạng khai hóa của đế quốc, tình trạng đô thị hóa
của nó và các tập tục mẫu quốc. Những gì được quan sát từ khách sạn là
một bản sao của trung tâm tân tiến và thế giới quay cuồng của nó. Trong
khi quang cảnh được sắp xếp từ khách sạn thấm nhập vào lữ khách sự bảo đảm và
tin tưởng của người thực dân thành công, thành phố thuộc địa, cũng giống như
thành phố mẫu quốc, cống hiến các khả tính vô hạn cho việc tản bộ, quan sát và bị
ngắm nhìn. “Sự vui tươi” [gaité, tiếng Pháp trong nguyên bản, chú
của người dịch] mà Franҫoise mong muốn kinh qua
cũng có thể được nhận thức như niềm vui thích của cuộc nhàn tản vô
định [flânerie, dạo chơi không mục đích, tiêng Pháp trong
nguyên bản, chú của người dịch] của Baudelaire, nằm ở chỗ tự buông thả một cách
lười biếng trước các xáo động của đời sống tân tiến. Nhưng khi được nhìn
và được trình bày, nó biểu tỏ quan điểm về sự hưởng nhàn của thời hiện đại và
sứ mệnh khai hóa của nó.
Tác giả Chris Rojek lập
luận rằng tính hiện đại (Modernity) tương ứng với hai loạt của các lực đối phản
nhau: trật tự và sự kiểm soát (Tính Hiện Đại 1); và sự phân hóa và hỗn loạn
(Tính Hiện Đại 2). Tính Hiện Đại 1 nhận thức sự hưởng nhàn như là một
hoạt động có mục đích được nhắm hướng tới một mục tiêu. Các nhà kiến trúc
của Tính Hiện Đại 1, Rojek tuyên bố, đã xem các không gian hưởng nhàn chẳng hạn
như các công viên, các lối đi bộ và các khách sạn như một phản không
gian (counterspace), một phản đề của sự làm việc và không gian sinh sống
(Rojek, 1995, trang 6). Nhưng đại khách sạn tại thuộc địa đã giới thiệu
khái niệm của điểm kích thích [tâm lý] tối thiểu (luminal), của sự mơ hồ: nó
không hoàn toàn là một địa điểm của sự vui chơi hữu lý, nó cũng không hoàn toàn
là một nơi chốn phát huy ý thức giả dối. Trong khi một mặt nó là một lăng
kính xuyên qua đó sự thành công của sứ mệnh khai hóa có thể được chiêm nghiệm,
mặt khác đại khách sạn đã tạo ra một hình ảnh khác về con người hiện đại hưởng
nhàn, lười biếng, đi tìm kiếm khoái lạc, đôi khi ngắm nhìn đường phố như một kẻ
ngoại cuộc và ở các lúc khác làm một cuộc tản bộ thờ thẫn xuyên qua thành phố
để tham dự vào “cảnh tượng” được cống hiến cho người đó.
Khách Sạn Continental Như Sân Chơi Phô Diễn Cách Thức
Hưởng NhànTại Các Thuộc Địa
Tác giả Claire Hancock
trong quyển ‘Capitale du plaisir: the remaking of imperial Paris’
(Hancock, 1995, các trang 64-95) khám phá, xuyên qua một sự duyệt xét các tác
phẩm của các tác giả địa phương và các quyển chỉ dẫn ngoại quốc và trong nước,
cách thức làm sao mà một Paris của Nam Tước Haussmann đã được thiết kế như một
cảnh tượng ngoạn mục và một đối tượng của sự tiêu thụ và, quan trọng nhất, làm
sao mà sách hướng dẫn du lịch đã góp phần vào sự thương mại hóa sản phẩm (commodification)
của thành phố. Các đại lộ, rất đặc biệt trong các sách hướng dẫn bằng Anh
ngữ, được nhìn như biểu lộ thực chất của đời sống Paris và tính cách
Paris. Các khách du lịch được mời để gia nhập vào đám đông các “kẻ
nhàn tản” [flâneurs,tiếng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch]
thả bước trên “các vỉa hè đi bộ” [trottoirs, tiếng Pháp trong
nguyên bản, chú của người dịch] giữa các quán cà phê và các trò giải trí trên
đường phố. Hay quan sát toàn cảnh di động từ trên nóc của một chiếc xe
buýt. Paris được trình bày như thành phố của lạc thú trái với London,
thành phố của công việc. Đời sống hướng ngoại của người dân Paris được
nêu nổi bật trong các sự xây dựng này và điều đã được làm để thể hiện rằng “sự
nhàn tản vô định” (flânerie) là khoản độc quyền dành riêng
cho Paris. Một sự duyệt xét văn bản du lịch của Anh Quốc viết về Sàigòn
phát hiện một khát vọng tương tự muốn xây dựng nó như chính thực chất của văn
hóa hướng ngoại của Paris, và chính xuyên qua hình ảnh của Continental mà ý
tưởng này đã được truyền đạt. Tác giả Horace Bleakley trong quyển A tour in southern Asia (1925-26)
viết:
Bất kể các sự cáo
giác của họ về “Cung Điện Continental”, giới tinh hoa của Sàigòn xem là sành
điệu để bảo trợ cho bữa ăn tối “trền nền nhà đắp cao” của nó. Bữa ăn được
phục vụ tại các bàn nhỏ, thắp sáng bởi các ngọn đèn thần tiên trên hàng hiên
rộng được che phủ bởi cây cối của đường Catinat, và từ chín giờ tối cho đến nửa
đêm, cảnh tượng phảng phất như một nhà hàng tại Champs Élysées. Bên kia
đường một nhóm ăn mặc bảnh bao bước ra từ hành lang của rạp chiếu bóng hàng
đầu, ở các thời khoảng thường xuyên trong suốt cuộc trình chiếu và gia nhập bữa
tiệc đêm tụ tập tại các chiếc bàn nhỏ trên vỉa hè đằng trước khách sạn.
Một dòng xe và xích lô, chở đầy các người đàn ông và đàn bà ăn mặc nhẹ nhàng để
đi hóng gió, lướt đi không ngừng dọc theo con đường. Có lẽ một cuộc khiêu
vũ đang diễn ra trong phòng khách của khách sạn, quay mặt ra khoảnh sân vuông
vức. Và nếu mùa nhạc kịch đã bắt đầu, các âm điệu của Verdi hay Mascagni
[hai nhà soạn nhạc kịch nổi tiếng của Ý lần lượt trong thế kỷ thứ 19 và cuối
thế kỷ thứ 19 và nửa đầu thế kỷ thứ 20, chú của người dịch] bay xuyên qua các
cửa sổ mở ngỏ của rạp hát và tiếng vỗ tay tán thưởng của thính đường chật người
có thể được nghe thấy đối với khách dùng bữa tối tại “sàn nhà đắp cao”.
Sinh hoạt ban đêm của Sàigòn là như thế, xoay quanh nhà hát nhạc kịch, hai rạp
chiếu bóng (picture-palaces) và hai khách sạn chính. (Bleakley, 1926, trang 23).
Khách lữ hành Anh Quốc phù phép một hình ảnh gợi nhớ đến sự mô tả về Paris lúc
đương thời. Sự kỳ diệu của thành phố của các lạc thú này được tái tạo
trong sự tái dựng như phim chiếu bóng này về “cảnh tượng Sàigòn” như được nhìn
thấy từ “nền nhà đắp cao” của Continental. Cảnh tượng đẹp mắt được nhìn
thấy từ khách sạn (dòng người Âu Châu thanh lịch ra khỏi rạp chiếu bóng) và các
khoái cảm thoáng qua đi kèm (các âm điệu của Verdi được nghe thấy từ Nhà Hát
Nhạc Kich) kết hợp Continental vào một cảnh trí thành phố thuộc địa rộng lớn
hơn và khiến ta nghĩ đến vai trò chủ chốt của nó trong sinh hoạt xã hội thuộc
địa. Tiếng vỗ tay hoan hô của Nhà Hát Nhạc Kịch đông đảo chỉ là sự biểu
hiện bên ngoài sự tán thưởng của khách lữ hành/người ngắm nhìn đối với “cuộn
phim” trình chiếu giới tinh hoa Sàigòn đàng trước khách sạn. Cuộc khiêu
vũ tưởng tượng tại phòng khách của khách sạn là sự khiêu gợi duy nhất về bên
trong trong đoạn văn này và nó bổ túc cho hình ảnh của Sàigòn – thành phố của
các lạc thú “Âu Châu”, với khách sạn Continental nằm ở trung tâm của sự hình
dung này.
Giống y như khách sạn Peninsula ở Hồng Kông, vốn trở thành nơi trú náu của Noel
Coward khi ông hoàn tất và tu sửa quyển Private Lives, đại khách
san tại Sàigòn làm yên lòng tác giả với một hình ảnh của “sự huy hoàng biệt lập”
(Coward, 1937, trang 379). Giống như các khách lữ hành Anh Quốc khác,
Coward đã hấp thụ vào mình một ý tưởng nào đó về Paris mà sau đó ông phóng
chiếu lên phần đất hải ngoại của Pháp. Khách sạn một lần nữa được biến
thể thành một chỗ ngồi quý giá để từ đó ngắm nhìn cảnh tượng của “thế giới
xinh đẹp” [beau monde, tiêng Pháp trong nguyên bản, chú của người
dịch] ngược xuôi nhộn nhịp trên đường Catinat trong các chiếc xe kéo” (Coward,
1937, trang 382). Hoạt cảnh này được phụ họa một cách thích hợp bởi nhạc
nền được cung cấp bởi giàn nhạc của khách sạn đang chơi hàng đêm “các đoạn
tuyển chọn từ Tosca, nhạc kịch Madame Butterfly và các vở nhạc kịch ngắn một
hồi (operettas) của Pháp nghe leng keng của thế kỷ thứ mười chín” (Coward,
1937, trang 32).
Osbert Sitwell, trong quyển Escape with Me, cũng trình bày lại hình
ảnh “Sàigòn như một cảnh tượng ngoạn mục”. Ông vạch ra rằng “ảnh hưởng
tổng quát của Sàigòn rằng nó đã được xây dựng như phản đề của nó (triển lãm
Thuộc Địa tại Paris); một Cuộc Triển Lãm Đế Quốc Pháp được sắp xếp dành cho Các
Thuộc Địa, hay ngay cả, còn lớn hơn và quan trọng hơn, một cuộc Triển Lãm Tây
Phương dành riêng cho các dân tộc của Vùng Viễn Đông” (Sitwell, 1949, trang
51).
Trong quyển “The Gentleman in the Parlour”, sự trình bày của Somerset
Maugham chuyển dịch sự du hành đế quốc thành sự bất động tinh cờ, và
Continental cung cấp khung cảnh thích hợp với các sự dự phòng của tiện nghi vật
chất (quạt điện mang lại sự khuây khỏa trước cơn nóng bức nhiệt đới).
Sàigòn là một nơi
đủ thích thú để ngồi không, bất động trong vài ngày; đời sống dễ chịu cho khách
lữ hành tình cờ; và điều rất thú vị để ngồi dưới mái hiên của nền nhà đắp cao
của Khách Sạn Continental, một chiếc quạt chạy điện ngay trên đầu bạn và với
một ly nước uống vô tư trước mặt, để đọc trong tờ báo địa phương các sự tranh
luận nóng bỏng về các sự vụ của Thuộc Địa và các “chuyện ít quan trọng” [faits divers, chuyện lặt vặt, ít tầm quan trọng trên các tờ báo, tiếng
Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] ở vùng lân cận (Maugham,
1955, trang 139).
Nhưng ngoại trừ khách sạn Continental, nơi cung cấp một khu vực nhàn nhã để
nhấm nháp một ly nước hoa quả (cocktail) và tham gia vào câu chuyện tán gẫu địa
phương, Sàigòn như một thành phố không có sức hấp dẫn đối với Maugham, một
người tự xem mình là một “khách lữ hành thứ thiệt”. Trong một trường hợp
của sự tưởng tượng bị dời chuyển một cách cố ý, ly nước của Maugham biến cải
các tin tức địa phương “vô tư” thành các câu chuyện “nóng bỏng”. Một lần nữa,
Continental trở thành một lợi điểm từ đó khách lữ hành đóng vai trò người quan
sát tách biệt. Sự trình bày gấp đôi (double textualisation) của
Maugham về cảnh tượng, trước tiên theo tờ báo và sau đó trong sự tái dựng
bằng lời nói của chính ông, được điều giải xuyên qua sự hiện diện của ông tại
khách sạn Continental. Sự trình bày có vẻ khiến ta liên tưởng trước tiên
rằng ông xem cái nhìn này như tình cờ và không ra ngoài sự bình thường.
Tuy nhiên, một cách mỉa mai, sự bày tỏ kép này che dấu một ước vọng lớn hơn về
phần khách lữ hành muốn tham gia vào cảnh tượng mà Sàigòn cống hiến cho ông ta.
Khách Sạn
Continental và Nỗi Bồn Chồn Nơi Thuộc Địa
Đại khách sạn biểu trưng cho một loại thế giới không tưởng có tính cách quý
tộc, đã bảo vệ tính chất kín đáo riêng tư của khách lữ hành, và đã ca tụng cá
tính của khách với nghi lễ nghiêm ngặt, các hầu bàn mặc chế phục đúng cách, và
nét kiến trúc quý phái của nó. Nó đã là sự tán dương của chủ nghĩa
tư bản về sự phiêu luu ở thuộc địa và sự cô đơn của đế quốc. Tuy
nhiên, kinh nghiệm này đã không xảy đến mà không có các sự lo âu và bồn chồn
của nó. Khách lữ hành/người kể chuyện trong quyển Tonkinades của
tác giả Jean Star quan sát từ sự kín đáo riêng biệt của “nền nhà đắp cao” trong
khách sạn của ông ta:
Saigon, Neuf heures du
soir – la rue Catinat … Une vague allure de ville d’eaux méridionales, vivant
ses heures nocturnes, lascives et énervées. Au trot vif des minuscules
attelages malais, passent les promeneurs blancs, tout blancs, plus blancs
encore dans la lumière électrique. Des filets d’or luisent aux manches et
aux casquettes des marins, des bijoux, des colliers excessifs brillent sur des
peaux brunes de métisses ennuagées de mousselines tenders. Et plus vite
trottent les petites bêtes courageuses sous les fouets de sais, plus
s’accentuent l’abandon des poses, l’hébétude renversée des fumeurs la beatitude
voulue des couples envies par les solitaires assis aux terrasses et refugiés
dans la consolation d’un cocktail glacé”
(Star, 1902, trang 21). 16
Sàigòn, 9 giờ tối,
trên phố Catinat … Một bàu không khí mơ hồ như bàu không khí của một thành phố
có suối nước khoáng sản, chuyên sống trong các giờ ban đêm, mê man và lo
âu. Các người da trắng, toàn trắng, và còn trắng hơn nữa dưới ánh đèn
điện khi họ đánh nước kiệu đi qua một cách mau lẹ trong các cỗ xe được kéo bởi
các con ngựa Mã Lai của họ. Các sợi chỉ kim tuyến lấp lánh
trên tay áo và mũ của các thủy thủ, quá nhiều các nữ trang và dây chuyền rực
sáng trên nước da nâu của các phụ nữ lai giống dấu mặt dưới lớp vải muslin
mỏng. Trong khi bước kiệu của các con ngựa non can đảm bị quất roi bởi
các sais [? một loại kiếm ngắn, mũi cùn, chú của người dịch] chạy nhanh hơn,
càng nhiều điều ghi nhận lại buông lơi tư cách hơn, dáng đê mê nghiêng ngả của
các kẻ hút thuốc và sự cố tính phô bày hạnh phúc của các cặp đôi bị ghen tức
bởi các kẻ cô đơn đang ngồi trên nền nhà đắp cao và tìm cách trốn tránh trong
sự an ủi được mang lại bởi một ly nước hoa quả ướp đá.
Cái
nhìn chằm chằm của khách lữ hành, cái nhìn được khách quan hóa từ trên mỏm đất
vươn cao, xen lẫn với các ưu tư đang tra vấn lý lịch của chính mình. Màu
trắng toát của các người đi dạo không làm dịu bớt mà trong thực tế lại còn nhấn
mạnh hơn sự khích động của bóng đêm. Các tua kim tuyến màu vàng trên các
chiếc mũ của các thủy thủ rực sáng long lanh như các nữ trang của các người đàn
bà lai giống da nâu trong các chiếc khăn quàng mỏng bằng vải muslin trắng bổ
túc cho vẻ lạ lùng của các phụ nữ ngoại lai này. Quang cảnh, phô diễn sự
mau lẹ gia tốc của các cỗ xe qua lại, thú vui sa đọa của các kẻ hút thuốc
phiện, và niềm vui của các cặp đôi, được quan sát với sự ghen tức bởi các lữ
khách đơn độc thả mình vào trong ảo giác thoải mái về không gian của Riêng Mình
(Self: Ngã, Ta, Tôi). Cái Tôi (Self) tỵ nạn không thể tự mình dứt bỏ khỏi
vị thế này hầu thỏa mãn ước ao của nó muốn chiếm hữu Kẻ Khác (Other: Tha,
Khách, Kẻ Khác). Tác giả Pascal Bruckner lập luận rằng du hành chính là
nỗi ưu tư hiện đại đó, giữa đời sống du mục (nomadism) bó buộc và sự hối tiếc
ngập ngừng, một loại phiêu dạt bất định đối diện với Kẻ Khác chỉ để thu hồi cái
Ta. Khát khao phiêu lưu tìm Kẻ Khác mau chóng bị biến thể thành nỗi lo sợ
làm hư hỏng cái Ta, được trình bày một cách ẩn dụ ở đây bởi sự hiện diện của
các người đàn bà lai giống có nước da màu nâu, với các khăn mỏng màu trắng tăng
cường cho màu da trắng của cảnh trí đô thị. Sự giải khuây mang lại bởi
một ly nước hoa quả ướp lạnh phản ảnh điều mà Bruckner mô tả như là “se replier
frileusement sur le petit chez soi”.
De faҫon plus générale, on peut appeler voyage,
cette hesitation modern entre un namadisme forcené et un dépaysement timide, ce
flottement insoluble qui ne fait la part la plus belle à l’ailleurs et à la
fuite que pour mieux se replier frileusement sur le petit chez-soi (Bruckner, 1979, trang 64). 17
Một cách tổng quát,
người ta có thể định nghĩa lữ hành như sự ngại ngần thời đại này giữa đời sống
du mục điên cuồng và sự mất định hướng lưỡng lự, sự phiêu dạt bất định này trao
các đặc ưu quyền cho nơi nào khác, và chạy trốn chỉ để thoái lui hơn nữa trong
một cách thế thu mình vào ngôi nhà tý hon của “Cái Tôi”.
Đại
khách sạn tái khẳng định sự hợp nhất của căn cước Pháp nhưng cuộc đàm luận của
lữ khách được khởi động bởi một ưu tư gấp đôi. Âu lo thứ nhất được sinh
ra bởi cảm giác bối rối rằng huyền thoại của truyền thống Pháp thuần túy tại
các thuộc địa bị đe dọa bởi sự hiện diện của các người đàn bà lai giống, và thứ
nhì, bởi sự bất lực của anh ta trong việc cung cấp một dự kiến toàn cảnh thống
nhất từ mũi đất của anh ta.
Một sự
phân tích chi tiết về sự chiêu niệm Sàigòn và Continental của ký giả Albert
Londres phản ảnh một cách thỏa đáng phản ứng mâu thuẫn của lữ khách-người ngắm
nhìn và sự liên hệ đối với địa điểm quen thuộc của người đó trong một không
gian nước ngoài. Quyển Visions Orientals, được ấn hành năm
2002, tập hợp các bài tường thuật du lịch của Albert Londres cho tờ báo của
ông, tờ L’Excelsior, trong thời khoảng từ 21 Tháng Một 1922 đến
ngày 15 Tháng Mười Một cùng năm.
À Saigon on peut voir:
1. Une église catholique, briques rouges, deux clochers; 2. La statue de
Gambetta, en pardessus et col de fourrure; 3. Le theater(ici on peut affirmer
que l’architecte eut une bonne idée, c’est d’écrire theater sur la faҫade, sans quoi, poussé par mon amour pour
l’agriculture, j’en aurai gravi immédiatement les degrés dans l’espoir
d’assister au dernier comice agricole de l’arrondissement; 4. La terrase du
Continental; 5. Le palais du Gouverneur Général et son jardin et son avenue, ce
qui vaut bien quelque chose; 6. Des pousses subtiles; 7. La rue Catinat (Londres, 2002, các trang 151-52). 18
Tại Sàigòn người ta có
thể đi xem: 1. Một nhà thờ Công Giáo, các viên gạch đỏ, hai chuông; 2. Tượng
của Gambetta với chiếc áo choàng và một khăn quàng cổ bằng lông thú; 3. Rạp hát
(nơi đây chúng tôi phải bổ túc rằng kiến trúc sư đã có một ý tưởng hay ho, để
viết chữ “Rạp Hát: Théâtre” trên tường mặt tiền, nêu không có nó, bị gợi hứng
bởi lòng yêu thích của tôi với việc canh tác, tôi sẽ leo lên đó với hy vọng
được nhìn thấy cuộc triển lãm nông nghiệp mới nhất của vùng lân cận; 4. Nền nhà
đắp cao của khách sạn Continental; 5. Dinh Toàn Quyền cùng vườn hoa và đại lộ
của nó, cũng đáng giá một cái gì đó; 6: Các phu kéo xe lặng lẽ; 7. Phố Catinat.
Sự
liệt kê kiểu mục lục các “thắng cảnh” (sights) được tiếp nối bởi một sự mô tả
chế diễu đường Catinat làm nổi bật ấn tượng của lữ khách về một Sàigòn đã trở
thành “une colonie de bigoudis”: “một thuộc địa của càc
người uốn tóc quăn”, “une colonie des ménages”: “một thuộc địa của các bà nội
trợ” (Londres, 2002, trang 151). Một bài tường thuật về một sự
việc khôi hài tại khách sạn Continental kế đó được nối tiếp tức thời bởi một sự
hồi tưởng trái nghịch của một khoanh đất Trung Hoa ngoại lai màu mè, náo nhiệt,
Chợ Lớn.
Với
địa điểm của khách sạn như thế và sự sắp xếp của sự tường thuật, điều trở nên
rất rõ ràng rằng cái nhìn từ “nền nhà đắp cao” của khách sạn là cái nhìn đầu
tiên, và tất cả phối cảnh khác được tập trung vào (đường Catinat) hay chống lại
nó (Chợ Lớn). Ước ao để “nhìn” (see) định hình định chế xã hội của sự du
lịch. Giống như kẻ mạo hiểm đi thu thập các kinh nghiệm, du khách quan
tâm đến việc thu thập “thắng cảnh” (sight). Tác giả Abbeele lập luận rằng
du lịch là “một phương thức có kích thước kiến thị (visual) được diễn dịch rõ
ràng bởi từ ngữ đồng nghĩa của nó, ngoạn cảnh (sightseeing)…To sight see is
to see sights: du ngoạn tức là ngoạn cảnh, [câu này khó có thể dịch cho sát
nghĩa, xem câu tiếp nối giải thích ý nghĩa rõ hơn, có lẽ tác giả nặng về phần
chơi chữ hơn, chú của người dịch], đi xem có những gì để xem hay có
những gì sẽ được xem xét”. 19 Sự liệt kê của Londres
vừa tăng cường vừa lật ngược sự phát biểu này. Bản liệt kê các “thắng
tích” (markers) một cách lộn xộn gộp chung lại tất cả các khía cạnh của Sàigòn
thuộc địa: nhà thờ chứng thực sự hiện diện đạo đức của Pháp, tượng Gambetta
khai sáng trung tâm; rạp hát, biểu tượng của chủ nghĩa đế quốc về văn hóa; nền
nhà đắp cao của Continental, mỏm đất không thể thiếu, dinh thống đốc, dấu tích
của sự hiện diện chính trị của Pháp; các phu kéo xe [pousses, tiếng
Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch] , dấu tích duy nhât về cái Khác; và
con đường Catinat. Tuy nhiên, hình ảnh nhà thờ bị thu giảm vào bề ngoài
của nó (gạch đỏ và hai chuông), của Gambetta mang trang phục bằng lông tại
Sàigòn nhiệt đới, hình ảnh của một nhà hát trông phảng phất như một hợp tác xã
Nông Nghiệp và sự nhạo báng “ce qui vaut bien quelque chose: đáng giá một
điều gì đó” để phẩm định dinh Thống Đốc đã mang lại một giọng điệu khuynh
đảo của bản tường thuật. Chỉ có khách sạn Continental và con đường
Catinat đáng để tham khảo nhiều hơn trong sự trích dẫn. Con đường Catinat
tóm lược một tinh thần địa phương trong đó các công việc của gia đình chiếm ưu
tiên trước các kỳ công khám phá của các kẻ phiêu lưu và thám hiểm trong quá
khứ. Nó làm thất vọng lữ khách “đến muộn” bởi vì nó đưa ra một hình ảnh
về “một thuộc địa của các bà nội trợ” (une colonie des ménages) nơi mà sự hiện
diện của phụ nữ và các ước muốn bất thường của họ đã làm tầm thường hóa đời
sống vinh quang tại các thuộc địa. Mặt khác, khách sạn Continental, từ
nơi mà một người định hướng nhìn của mình, vẫn cho phép người đó tuyên bố
rằng “(si), sur la figure de l’Indochine, un vieil air de l’époque
truculent demeure encore, c’est à Saigon qúil verdoie” (Londres, 2002,
trang 155) “Nếu một bàu không khí của một thời sinh động đã qua vẫn còn hiện
diện trong hình ảnh của Đông Dương, đó chính là tại Sàigòn, nơi mà các sắc màu
của nó có thể trông thấy”. 20
Nếu
các công ốc và nhà thờ và các “phu kéo xe” im lặng tượng trưng cho “colonie
de nos rêves: thuộc địa trong các giấc mơ của chúng ta”, đường phố Catinat
khêu gợi sự thoái hóa đáng ghét trong các giá trị thực dân. “Nền nhà đắp
cao” dường như sẽ là chiếc cầu giữa một quá khứ đáng kính và một hiện tại đáng
khinh. Nỗi ưu tư phát sinh bởi sự xác định vị trí này được phản ảnh trong
giai thoại thuật lại trên “nền nhà” của Continental. Lực đẩy và sức hút
mà thuộc địa hiện tại gợi lên được phản ảnh trong câu chuyện của Londres về hai
vị khách “anh hùng” đã thách đố cơn nóng bức của Sàigòn mọi buổi chiều trên
“nền nhà” của Continental, mặc áo khoác ngoài chống ám khói thuốc lá
(smoking-jacket) và cổ áo cao. Các nhân vật trong truyện là người Anh,
nhưng sự so sánh với tinh thần thuộc địa Pháp đương thời thì hiển nhiên.
Như đã
nhận định trước đây, trong bảng liệt kê sơ khởi không gian khác, thuộc bên
trong nhà và do đó vắng bóng trong cái nhìn từ Continental, chỉ xuất hiện trong
sự đối chọi hoàn toàn trong sự mô tả về Chợ Lớn:
… quelle odeur de
noisette grille! Ah! Ces pipeurs d’opium, Zim! Zim! Boum! Boum! Et c’est le
violon monocorde avec son cri du chat qúon écorche … et ces petites cantonaises
qui chantent comme une locomotive qui siffle! On s’entend plus. C’est le
monde où l’on s’amuse (Londres, 2002, trang 159). 21
… cái gì ngửi như mùi
hạt rang! À! Các người hút thuốc phiện, Zim! Zim! Bập! Bum! Và đây là chiếc vĩ
cầm một dây độc nhất, nghe như tiếng một con mèo bị lột da … Và một đứa con gái
nhỏ người Quảng Đông cất tiêng hát như đầu máy xe hỏa rống còi! Chúng tôi không
còn nghe đưo|.c giữa nhau nữa. Đây là một thế giới nơi mà người ta có sự
đùa dỡn.
Thế
giới này, với các mùi vị và âm thanh riêng biệt của nó, là một thế giới sẽ
không được “nhìn thấy” giống như thế giới “Giống” vậy (Same), nhưng “được nghe”
và “được ngửi” thấy để kinh nghiệm về Tính Khác (Otherness) Lữ khách đặt định
“một cách tự nhiên” tại Continental, tự tách biệt mình khỏi thế giới âm thanh
và mùi vị này để ở lại trong lãnh địa quen thuộc của kẻ quan sát, ngay dù nó
chỉ là một phòng trưng bày giản dị từ đó người ta có thể quan sát sinh hoạt
khôi hài của các du khách tại thuộc địa
À Saigon, il est deux
gentlemen phénomènes. Si je n’allais pas naturellement m’asseoir à la
terrasse du Continental, j’irais spécialement pour y voir, à l’heure de leur
diner, les deux gentlemen announcés (Londres, 2002,
trang 157). 22
Tại Saìgon có hai
người đàn ông kỳ dị. Nếu tôi không tự ý đến ngồi nền nhà đắp cao tại
Continental, tôi sẽ đặc biệt đến đó, vào giờ ăn tối, để nhìn hai người đàn ông
đó loan báo.
Chủ
từ “je” (tôi) được dùng trong đoạn văn này trái ngược với chủ
từ “on” (người ta) mơ hồ hơn được dùng để mô tả Chợ Lớn.
Sự truy tầm Kẻ Khác Kia đích thực và sự truy tầm Cái Tôi đich thực tạo thành sự
căng thẳng gây ra sự bồn chồn của lữ khách. Sự căng thẳng này được phản
ảnh trong sự khao khát không tự nguyện song không kiểm soát được của Londres để
“nhìn” Kẻ Khác và để mỉa mai Cái Tôi (Self).
“Cung Điện”
Continental – Một Mái Nhà Khi Xa Quê Hương
May
mắn cho khách lữ hành, đại khách sạn, cung cấp cửa sổ nhìn vào không gian khác,
cũng tạo sự đễ dàng cho việc quay trở về mau chóng với khung cảnh quen thuộc
của một ngôi nhà. Như là một sự bảo đảm cho các giá trị Âu Châu, nó tự
biến thể thành một câu lạc bộ, một nơi trú náu an toàn, nơi mà người Da Trắng
tại Phương Đông có thể nhấm nháp tinh túy và sự xa hoa của xã hội Âu Châu giữa
các người cùng giống. Tại tầng một của khách sạn là một sòng bài (vai
chính của Farrère gọi đó là “cercle européen” (câu lạc bộ âu châu),
Franchini gọi là “cercle privé” (câu lạc bộ riêng)nơi mà các nhà
quản trị hành chính, các lữ khách, các chủ đồn điền, và các chủ ngân hàng họp
mặt thường lệ, vừa vì lòng ham chơi bài cũng như vừa để sống lại kỷ niệm của
đời sống mẫu quốc. Khi văn sĩ, ký giả Pháp, Lartéguy, kêu lên “Je n’y
descendais pas, j’y retrouvais un foyer: Tôi không làm thủ tục nhập phòng ở một
khách sạn, tôi tìm thấy một lò sưởi gia đình thân thuộc ở đó” (Lartéguy,
1987, trang 60), 23 ông đáp ứng ước ao của lữ khách để
thông hiểu thường trực sự dời chỗ ở của mình bằng việc đi và đến. Đại
khách sạn, giống như các khách sạn khác trong thời kỳ đó, tự quảng cáo mình là
ngôi nhà khi xa quê. Tác giả Van den Abbeele trong lý thuýet của ông vè
du lịch phát bỉểu rằng kinh té của du hành càn một oikos, nơi
mà sự thu thập và mát mát của kinh nghiệm du hành có thẻ được lượng giá, một
phương tiẹn theo đó việc phiêu bạt có thẻ hiểu được. Oikos,
qua việc định nghĩa và vạch giới hạn cho sự di chuyển của du hành, tạo lập ý
niệm về Oikos bằng việc đi và đến (Abbeele, 1992). Đại
khách sạn trong khía cạnh này tượng trưng cho oikos tại không
gian nước ngoài.
Kiến
trục và nội thất của các đại khách sạn cũng như lối sống mà chúng cóng hiến đã
thỏa mãn nhu cầu này qua việc cung cấp một bàu không khí “không khác gì ở bên
Pháp”. Lời tường thuật của Franchini nói chi tiết làm sao để thực đơn là
một bản tuyên ngôn của chủ nghĩa dân tộc của sự nấu nướng, công việc của một
đầu bếp chính chuyên nghiệp tuyển dụng từ một tàu du lịch sang trọng.
Điều đáng để ghi nhận rằng nghệ thuật ẩm thực Pháp được chào mời tại
Continental, nhấn mạnh rằng nó đã làm như thế trong ý thức hãnh diện dân tộc,
bao gồm không chỉ tính chuyên nghiệp khi nấu nướng, mà còn ở nhiều loại thức ăn
và sự quảng đại, như được phản ảnh nơi các kích cỡ của phần ăn phục vụ.
La vaste sale à manger
était restée dans le style des Messageries Maritimes, comme la cuisine don’t le
maitre d’oeuvre avait été débauché d’un paquebot.
Les menus, par
l’abondance des plats et la générosité des portions étaient des veritable
manifestes de nationalism culinaire. “Aussi biên qu’en France”, telle
voulait être la devise (Franchini, 1995, trang 101). 24
Phòng ăn rộng lớn theo
kiểu của ‘Messageries Maritimes’ giống như nhà bếp với đầu bếp chính được bắt
trộm từ một chiếc tàu chở du khách. Các bữa ăn, bởi sự thừa thãi của các
đĩa thức ăn và sự hào phóng của phân lượng, là các bản tuyên ngôn đích thực của
chủ nghĩa dân tộc trong sự nấu nướng. “Ngon y như ở bên Pháp’ là khẩu
hiệu”.
Về vấn
đề ăn uống tại các thuộc địa, tác giả Charles Le Mire nhận xét trong
quyển Cochinchine franҫaise et royaume de Cambodge:
Si nous nous sommes
longuement arêtes sur ce chapitre ce n’est point par amour de l’art ou par
penchant pour la cuisinière bourgeoise mais parce que la table, qui peut n’être
ailleurs qu’une condition première de l’existence physique exerce encore une
grande et bienfaisante influence sur le moral … Les repas sont un motif de la
reunion, une occasion de distraire par les plaisirs de la conversation, la
varíeté des caractères et des idées et la gaité des menus propos (Le Mire, 1877, trang 347). 25
Nếu chúng ta đã dành
quá nhiều thì giờ cho chương này, đó không phải vì lòng yêu mến dành cho nghệ
thuật này hay sự ưa chuộng đối với đầu bếp trưởng giả, mà bởi vì thức ăn, chỉ
có thế thuộc loại hảo hạng cho sự sinh tòn của thể xác, song còn thực hiện một
tác dụng hữu ích quan trọng trên tinh thần của chúng ta. Các bữa ăn đã là
duyên cớ cho các buổi họp mặt, một cơ hội để giải trí xuyên qua các thú vui đàm
luận, tình đa trạng của các nhân vật và các ý tưởng, và sự vui vẻ của câu
chuyện nhỏ.
Điều
hoàn toàn rõ ràng từ văn bản của Le Mire rằng phòng ăn tối là địa điểm lý tưởng
cho việc tang cường các giá trị quốc gia cực đoan và quân phiệt
(chauvinism). Các tiện nghi phòng ăn được giao cho tầm quan trọng chủ yếu
tại các khách sạn thuộc địa, và được xem như sự hấp dẫn có giá trị nhất bởi lữ
khách sâu sắc. Mạt khác các lữ khách coi trọng sự kín đáo riêng tư của họ
hoàn toàn sẵn lòng đế đến gặp nhau trong các bữa ăn. Sự phục dịch quý
phái, các đồ trang hoàng lộng lẫy và nghệ thuật nấu ăn cao cấp kết hợp với nhau
để lấp đầy cảm giác lo âu của Cái Tôi, trong cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng.
Đối
với Lartéguy, cũng như đối với nhiều lữ khách khác, Continental lấp đầy lỗ hổng
của sự mất nhà qua việc mở rộng không gian (spatialising) cho thời khoảng dời
đổi chỗ ở bằng việc tìm lại được một “mái ấm gia đình với lò sưởi” [foyer,
tiêng Pháp trong nguyên bản, chú của người dịch], Lartéguy, 187, trang
60). Nghệ thuật ăn ngon và các sự phục vụ bữa ăn đã đóng một vai trò quan
trọng trong khía cạnh này. Tuy nhiên, như chúng ta đã nhận thấy trước
đây, ban cấp đặc ưu quyền cho các oikos trong kinh tế du hành
cũng có nghĩa chống đỡ cho chủ nghĩa coi trọng một chủng tộc (ethnocentrism) và
chủ nghĩa đế quốc. Điều này hiển hiện không đâu rõ nét cho bằng trong
tiểu thuyết của Greene, quyển The Quiet American, nơi quan điểm
thuật chuyện di chuyển chung quanh điều có thể được mô tả như một oikos huyền
thoại: khách sạn Continental. Quán rượu và câu lạc bộ báo chí tại
Continental đại biểu cho địa điểm của các mạng lưới năng động giữa các nhà trí
thức, các ký giả, cảnh sát Pháp, các nhân viên viện trợ Hoa Kỳ và các phụ nữ
địa phương. Quyển tiểu thuyết bắt đầu với nhân vật Fowler, ký giả người
Anh, tại quán rượu Continental ngồi chờ đợi đối tác Hoa Kỳ, Pyle, đến nhập bọn
với ông ta. Hồi kết thúc của quyển truyện lập lại cùng khung cảnh trong
một hồi tưởng khác. Quầy rượu và câu lạc bộ báo chí trở thành các điểm
tham chiếu cho sự xây dựng và cung cấp chứng liệu cho câu chuyện, còn chống đỡ
một xướng xuất đế quốc khác gần một thế kỷ sau cuộc chinh phục đầu tiên của Âu
Châu ở Sàigòn (Greene, 1955).
Kết Luận
Xuyên
qua sự tìm đọc các sự trình bày về khách sạn Continental trong văn chương, bài
viết này đã khảo sát phương cách làm sao mà Continental tại Sàigòn thuộc địa đã
cấu thành một địa điểm phức hợp, nơi mà các cuộc đàm luận về chủ nghĩa thực
dân, tình hiện đại và sự hưởng nhàn đã giao kết nhau để tạo ra một bàu không
khí đã tái khẳng định tính hiện đại và căn cước Âu Châu tại một không gian xa
lạ. Như sự tham khảo đến quyển tiểu thuyết của Graham Greene cho
thấy, khách sạn Continental tại Sàigòn thời hậu Thế Chiến II vẫn còn là
một tiêu điểm cho các du khách ngoại quốc. Nó tiếp tục để đại diện cho
chủ nghĩa đế quốc Tây Phương tới mức độ mà nó còn chống đỡ cho các thái độ coi
trọng một sắc dân ngoại quốc trên dân chúng địa phương. Tuy nhiên,
Continental không còn là một mỏm đất nhô cao của thực dân; nó cũng không
phải là một sàn phô diễn các tập tục hưởng nhàn của lữ khách lịch lãm.
Quan trọng nhất, Sàigon của Người Mỹ Trầm Lặng (The Quiet American) không
còn tượng trưng cho sự lãng mạng kỳ diệu của Paris. Mẫu quốc Âu Châu định
hướng lối sống ngoại lai của Sàigòn tại Đông Dương thuộc địa đã bị thay
thế. Chủ nghĩa thực dân Pháp bị đánh bại và bị thay thế bởi một nhãn hiệu
khác của chủ nghĩa đế quốc Tây Phương, làm biến đổi thành phố thanh nhã, “hòn
ngọc Viễn Đông” [“la perle de l’Orient”, tiếng Pháp trong nguyên
bản, chú của người dịch], thành một “thành phố xe gắn máy Honda” (Hondaville)
bị khống chế bởi đồng đô la với các quán rượu, ma túy và mua bán xác thịt công
khai của nó.
Kỹ nghệ du lịch hậu chiến mau chóng thay thế các đại khách sạn
này, các di sản không mong muốn của kỷ nguyên thực dân, với các khách sạn
Intercontinental (Liên Đại Lục) có nhãn hiệu riêng của nó. Ngày nay,
trong một kỷ nguyên lữ hành đại chúng và du lịch tiêu thụ, tác giả Pico
Iyer (2000) nhận xét rằng các phòng ngủ dọc đường thông thường (nondescript
motels) và các phòng đợi dành cho khách vãng lai đã cung cấp nơi ở cho hàng
triệu “con người toàn cầu”. Tuy nhiên, như được nêu ra trước đây ở dẫn
nhập, vẻ quyến rũ của các sự huy hoàng của nơi trú náu của một thời đã qua chưa
biến mất toàn bộ. Các đại khách sạn giờ đây đang được tiếp thị như các
kiến trúc thực dân ngoại lai tại các thành phố hậu thuộc địa. Các động
tác mới của “việc đền đài hóa” này (Peleggi, 2005) cống hiến du khach giàu có
hay Viên Chức Giám Đốc Điều Hành Công Ty (CEO) [chữ viết tắt của thành ngữ
Chief Executive Officer), chú của người dịch] chuyên di chuyển bằng máy bay một
kinh nghiệm “thực dân” với các giá biểu thật xa hoa – một kinh nghiệm khác biệt
một cách bao la với sự tiếp khách nhẹ nhàng của các hệ thống khách sạn toàn cầu
hóa như Sheratons, Marriotts, và Novotels. “Lữ khách đặc biệt” của kỷ
nguyên mới, giống như đối tác đế quốc của mình một trăm năm trước đây, khó có
thể lẩn trốn sự quyến rũ của một “khách sạn Raffles” tái ngoại hóa
(re-exoticised) tại Singapore hay một “Đại Khách Sạn Grand” tân trang tại
Calcutta –chỉ khi nào người đó tự tách mình ra khỏi “khách du lịch” thời đại mới bị
khinh rẻ hơn nhiều./-
_____
CHÚ THÍCH:
1. Xem Denby, 1998 và Walter, Fitchett, Meade và Lartéguy, 1987.
2. Xem trang nhà trên mạng internet của khách sạn Continental
ở: http://www.continental-saigon.com/, tiếp cận
ngày 17 Tháng Mười Hai, 2007.
3. Xem Peleggi, 2003. Trong sự nghiên cứu của ông về sự
phục hồi các khách sạn thực dân tại Đông Nam Á từ thập niên 1990, tác giả
Peleggi ghi nhận rằng hai yếu tố đang được thực hiện: yếu tố thứ nhất diễn ra
trong lãnh vực vật thể nơi sự nâng cấp kiến trúc nhắm vào việc đạt được một vẻ
tương đồng với nguyên bản; và yếu tố thứ nhì, trong lãnh vực tưởng tượng, nơi
mà các huyền thoại về lịch sử của các khách sạn được dùng để chứng minh cho tư
thế “đền đài tưởng niệm” và để phục vụ làm các chiến lược tiếp thị.
4. Một sự phát triển chi tiết về tính lưỡng phân (hay nhị
nguyên: Binary) được nêu bật lên trong quyển phê bình về tác phẩm lữ hành của
Paul Fussell nhan đề Abroad: British literary travelling between the
Wars (1980) không tạo thành vấn đề trong cuộc nghiên cứu này.
Trong mục đích của bài viết này các từ ngữ “traveler: người lữ hành”
[chỉ người di chuyển từ nơi này đến nơi kia, theo định nghĩa thông thường trong
từ điển, ND] và “tourist: khách du lịch” [người di hành với mục đích
rong chơi, thường để ngoạn cảnh và cư trú tại các khách sạn, theo nghĩa thông
thường trong từ điển, ND] được dùng cùng nghĩa, có thể thay cho nhau. Giả
định này theo sau sự phân tích của Buzard, người đã nhận xét rằng người lũ
hành/khách du lịch thì biến đổi thường trực giữa ước ao của mình muốn trở thành
một quan sát viên tách biệt vô tư, với ước muốn để tham dự vào cảnh tượng hiến
dâng cho mình. Xem Buzard, 1993. Tôi thừa nhận tầm quan trọng của
giống phái trong các sự hình thành cá tính nhưng nhận định rằng một sự khảo sát
nghiêm chỉnh trong khung cảnh này nằm ngoài phạm vi của bài nghiên cứu này.
5. Trong sự thiếu sót các tài liệu khách sạn, phần lớn những gì
chúng tôi hay biết được về khách sạn đến từ quyển tự truyện của Philippe
Franchini,Continental Saigon (1976). Quyển sách thảo luận chính
yếu đến các kinh nghiệm của Philippe thời trẻ, con của người cha gốc Corsican
và người mẹ gốc Việt Nam, tại Sàigòn thời thuộc địa. Quyển sách chứa đựng
rất ít chi tiết cụ thể về sự điều hành thường nhật khách sạn. Trong thực
tế quyểnContinental Saigon đóng góp rất nhiều về việc huyền thoại
hóa một định chế thuộc địa, theo cùng phương cách mà các văn bản của các thực
dân Pháp và khách lữ hành đã làm hồi sớm hơn của thế kỷ. Trong bài khảo
luận này, các số trang tham chiếu theo ấn bản năm 1995 của quyển sách.
6. Kỷ nguyên thuộc địa của khách sạn có thể được phân chia thành
các thời kỳ “anh hùng” (heroic) và “đế quốc” (imperial). Trong những năm
ban đầu của sự hiện hữu của nó, các kẻ phiêu lưu thực dân, các kẻ lữ hành lập
dị, và các khách du lịch quý phái đã cấu thành khối thân chủ giàu có của
Continental. Các cuộc thăm viếng của các nhân vật huyền thoại như Marie
David de Mayrena, vua xứ Sedang [do ông ta lập ra tại cao nguyên Trung Phần,
chú của người dịch], trong năm 1888 đã khuếch đại bàu không khí của sự huyền
bí, kỳ thú và phiêu lưu mà khách sạn đã phóng chiếu ra (Franchini 1995, trang
54). Trong thập niên 1930, Mathieu Franchini đã thay thế kỷ nguyên chất
phác hay “anh hùng” được tạo lập bởi chủ nhân khách sạn Frassetto và “La Socíété
des Grands Hotels” (Hội Các Đại Khách Sạn) bằng một bàu không khí đế quốc mang
lại cho các khách hàng của ông các tiện nghị hiện đại cũng như niềm khoái lạc
và sự tinh tế của Paris (Franchini, 1995, trang 101).
7. Tự truyện của Franchini không cung cấp chi tiết về người
mua. Tuy nhiên tác giả tuyên bố rằng ông không chắc là danh xưng của công
ty liên can đến sự thanh lý các tích sản của khách sạn là “Dupond” hay “Durand”
(Franchini, 1995, trang 284).
8. “As I pass, I
recognize the dark shape of the cathedral, indifferent to changes in
time. Here is the Central Post Office … on the front wall of the building
a giant clock continues to mark time. Then, here is the famous rue
Catinat, which had become rue de la Liberté after French colonization and is
re-baptised today as rue Đồng Khởi. In those days, it used to be bordered
by chic cafes’ and renowned bars amongst which was the bar at the Continental
hotel. One used to mix with the most elegant women of Saigon here” (phần
dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
9. Sự thiết lập Nhà
Hát Thành Phố (Théâtre Municipal) trong năm 1911 đã phóng ra một kỷ nguyên mới
của sự giải trị tại thuộc địa và khách sạn trở thành nơi trú ngụ của “les
broussailleux” (các người Pháp sống tại các tỉnh khác) và các viên chức khác
sống bên ngoài Sàigòn đến thành phố để xem các buổi trình diễn và tham dự và
đời sống văn hóa của “Tout Sàigòn” (Toàn Thể Saigòn).
10. “The
Continental is anchored in rue Catinat halfway from the Plateau where the
Cathedral stands, the Norodom Palace and its colonial splendor – and from the
port with its tall commercial building, its wharfs where rubber, precious wood
and rice, the riches of the colony, are piled up” (phần dịch sang tiếng Anh là
của tác giả).
11. …”the green
hour on the Continental terrace when short evenings used to fall on carob trees
and coaches used to cross rue Catinat to the sound of their bells”.
12. “It was a
manner of expressing the confidence one had in the colonizing mission through
the hotel architecture. Not only đi the entrance hall open out on the
same level as the pavement, the ground floor also opened outwards to make it
appear like a vast gallery. In effect, the Continental closely resembled
a ship, its structures, freshly unloaded from the vessels were filled with
odours of decks and gangways” (phần dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
13. “Saigon, 9
o’clock in the evening – the rue Catinat … White people, full white, and
appearing whiter in the electric light as they trot past swiftly in their Malay
horse driven carraiages” (phần dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
14. “Rue Catinat, a
fashionable bustle, appropriate and yet admirably free and impudent because the
sovereign law of the region and its climate privilege foreign customs.
There are people from every country. Europeans, mainly French, rub
shoulders with the natives with the patronizing insolence of conquerors” (phần
dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
15. “Rue Catinat,
we laugh and we get off happily in front of the hotel” (phần dịch sang tiếng Anh
là của tác giả).
16. “Saigon, 9
o’clock in rue Catinat … A vague atmosphere like that of a southern spa town
living its nocturnal, lustful and nervous hours. White people, fully
white, and appearing whiter in the electric light trot past swiftly in their
tiny Malay horse driven carriages. Golden threads shine on the sailors’
sleeves and hats, excessive jewels and necklaces glow on the brown skins of the
mixed-race women hiđen in soft muslin. As the trot of the courageous
young beasts whipped by the sais become faster, the more marked becomes the
lack of restraint in postures, the tilted stupor of smokers and the deliberate
state of bliss of couples envied by lonely people sitting on the terraces and
taking refuge in the consolation provided by an iced cocktail” (phần dịch sang
tiếng Anh là của tác giả).
17. “Generally
speaking, one can define travel as this modern hesitation between frenzied
nomadism and hesistant disorientation, this unresolved floating that privileges
elsewhere and escape only to further withdraw in a huddled manner into the tiny
home of the Self” (phần dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
18. “In Saigon, one
can see: 1. A Catholic church, red bricks, two bells; 2. Statue of Gambetta in
an overcoat with a fur collar; 3. The theatre (here we must add that the
architect had a good idea, that is to write “theater” on the front wall,
without which, inspired by my love for farming, I would have climbed up in the
hope of watching the latest agricultural show of the neighbourhood; 4. The Continental’s
terrace; 5. The Governor General’s palace and its garden and its avenue, which
is worth something; 6. Quiet rickshaws; 7. Rue Catinat” (phần dịch sang tiếng
Anh là của tác giả).
19. Van Den Abbeele, 1985, trang 66. Cũng xem, MacCanell,
1976.
20. “If an
atmosphere of a bygone lively era is still present in the image of Indochina,
it is in Saigon that its colours are visible” (phần dịch sang tiếng Anh là của
tác giả).
21. “… what smells
of roasted nut! Ah! The opium smokers, Zim! Zim! Boum! Boum! And this is the
single-string violin, which sounds like a cat thatbis being skinned … And the
little Cantonese girls who sing like a whistling steam engine! We can no longer
hear each other. This is a world where one has fun” (phần dịch sang tiếng
Anh là của tác giả).
22. “In Saigòn,
there are two eccentric gentlemen. If I did not go of my own accord to
the terrace at the Continental, I would go specially at dinner time to see the
two gentlemen announced” (phần dịch sang tiếng Anh là của tác giả).
23. “I did not
check into a hotel, I found a home there” (phần dịch sang tiếng Anh là của tác
giả).
24. “The huge
dining room was in the style of the “Messageries Maritimes” like the kitchen
whose chief cook had been poached from a passenger ship. The meals, by
the profusion of dishes and the generosity of portions, were true mani\festos
of culinary. “As good as in France”, that was the motto” (phần dịch sang
tiếng Anh là của tác giả).
25. “If I have
spent so much time on this chapter it is not because of love for this art or
fondness for the bourgeois cook, but becaused food, which can only be a primary
condition for physical existence,still excercises an important beneficial
influence on our morale. Meals are an excuse for meetings, an opportunity
for entertainment through the pleasures of conversation, the variety of
characters and ideas, and the gaiety of small talk” (phần dịch sang tiếng Anh
là của tác giả).
_____
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
Bleakley, Horace
(1926) A tour in southern Asia (London: John Lane).
Bruckner, Pascal (1979). Au
coin de la rue aventure (Paris: Seuil).
Buzard, James
(1993) The beaten track: European tourism, literature and the
ways to culture, 1800-1918 (Oxford: Oxford University Press).
Coward, Noel
(1937) Present indicative (London: W. Heinemann).
Denby, Elaine
(1998) Grand hotels: reality and illusions: An architectural and
social history (London: Reaktion Books).
Farrère, Claude (1919) Les
civilisés (Paris: Flammarion, 1919).
Franchini, Philippe (1995) Continental
Saigon (Paris: Ed Métailié) (Ấn bản đầu tiên năm 1976).
Fussel, Paul (1980)
Abroad: British literary traveling between the Wars (New York:
Oxford University Press).
Greene Graham
(1973). The quiet American (London: Heinemann) (Ấn bản
đầu tiên năm 1955).
Hancock, Claire
(1999) Capitale du Plaisir: the remaking of imperial Paris, trong sách
đồng biên tập bởi Felix Driver và David Gilbert, Imperial cities:
Landscape, display and identity, các trang 64-95. (Manchester: Manchester
University Press).
Iyer, Pico
(2000) The global soul: Jet lag, shopping malls and the search for home (London:
Bloomsbury).
Le Mire, Charles (1877). Cochinchine
franҫaise et royaume de
Cambodge.
Lefevre, Kim (1995). Le Retour à la
saison des pluies (Paris: Éditions de l’aube).
Leuba, Jeanne (1920) L’aile de feu
(Paris: Calman Levy).
Londres, Albert (2002) Visions
Orientales (Paris: Le Serpent à plumes).
MacCanell, Dean
(1976) The Tourist: A new theory of the leisure class (New
York: Schocken Books).
Malraux, André (1976) Antimémoires (Paris:
Gallimard).
Massey, Doreen
(1993) Power geometry and a progressive sense of place, trong sách đồng biên
tập bởi John Bird, Curtis Barry và các tác giả khác),Mapping the futures –
local cultures, global change, các trang 59-69 (London: Routledge).
Maugham, Somerset
(1955) The gentleman in the parlour, trong quyển The Travel books of W.
Somerset Maugham (London: William Heinemann).
Norindr, Panivong
(1996). Phantasmatic Indochina: French colonial ideology in
architecture, film, and literature (Durham: Duke University Press).
Peleggi, Maurizzio
(2005) Consuming colonial nostalgia: The monumentalisation of historic hotels
in urban South-East Asia. Asia Pacific Viewpoint46(3), các
trang 255-65.
Peleggi, Maurizzio
(1996) National heritage and global tourism in Thailand. Annals
of Tourism Research 23, các trang 432-48.
Pratt, Mary Louise
(1992) Imperial eyes (London: Routledge).
Rojek, Chris
(1995). Decentring leisure – rethinking leisure theory (London:
Sage Publications).
Sitwell, Osbert
(1949). Escape with me (London: Macmillan).
Star, Jean (1902) Tonkinades (Paris:
Calmann-Lévy).
Van den Abbeele,
Georges (1992) Travel as metaphor: from Montaigne to Rousseau (Minneapolis:
University of Minnesota Press).
Van den Abbeele,
Georges (1985) Montesquieu tourist, or a view from the top. L’esprit Créateur XXV(3).
Walter, Marc, Joseph Fitchett, Martin Meade
et Jean Lartéguy (1987) Palaces et Grands Hôtels d’Orient (Paris:
Flammarion).
Wright, Gwendolyn
(1991). The politics of design in French colonial urbanism (Chicago:
University of Chicago Press)./-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét