Thứ Tư, 16 tháng 12, 2020

 

Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)



CHƯƠNG II

Ðề cương:


Chiến địa và tình trạng hai phe đối thủ - Cơ bản địa lý của đế quốc Annam - Tầm quan trọng quân sự và chính trị của thành Ki-hoa [1].

Ðế quốc Annam gồm ba xứ mà trước kia hoàn toàn riêng biệt:

- Xứ Bắc K5], xứ Bắc Kỳ còn gọi là Xứ bên ngoài, và theo một tài liệu Hòa Lan thì phải gọi là Annam phía Bắc [6];

-Xứ Trung K10];

-Nam Kỳ miền dưới [11], mà nhiều tài liệu ghi sai là tỉnh Saĩgon, miền này các bản đồ xưa đều ghi là Cao Miên [12]. Thật vậy, trước cuộc chinh phục của các Chúa nhà Nguyễn [13], thì vùng đất này thuộc lãnh thổ của vương quốc Cao Miên.

Ngoài ra đế quốc Annam còn gồm một số nước bảo hộ phải triều cống. Ðây là tình trạng đế quốc Annam bắt đầu từ năm 1802 cho đến nay.

Một dãy núi kéo dài 800 dặm, tiếp nối từ vùng núi non Tây Tạng, không xa cao nguyên Khou-khou-noor, đổ dài xuống phía nam song song với vùng biển Tàu, phân định vị trí hai vùng vương quốc xưa nhất của đế quốc Annam. Một bên là núi và một bên là biển làm ranh giới thiên nhiên cho hai vương quốc Annam phía Bắc và Annam phía Nam; nếu dùng danh xưng không được đúng lắm nhưng thông dụng hơn thì gọi là Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Bắc Kỳ là một vùng đồng bằng rộng lớn, phù sa, phì nhiêu và phong phú nhờ sông Sang-koi hay Song-ca [14] và các phụ lưu bồi đắp. Nam Kỳ là một dải đất chỉ rộng từ 30 đến 50 dặm, kéo dài từ bắc xuống nam; dọc theo một dãy núi bao bọc nằm bên phía tây. Nước đổ ra biển bằng các sông ngòi ít ngoằn ngoèo, nước chảy cuồn cuộn, từ hướng tây ra hướng đông. Ðây là dãy núi xa nhất về phía đông trong số 5 dãy núi lớn tạo ra các vùng thung lũng rộng là xứ Miến Điện, xứ Xiêm La, xứ Cao Miên và xứ Annam. Núi trải dài từ vĩ độ 11 thành từng vùng thấp dần theo một đường uốn cong bắt đầu từ núi Vi và đổ ra sát tới biển, tạo ra một bức trường thành rộng lớn và một ngọn đèo, chỉ chừa lại một dải đất hẹp là Phan-thiet [15], làm ranh giới thiên nhiên giữa Nam Kỳ miền dưới và Nam Kỳ miền trung.

Trở xuống phía tây nam vẫn còn các núi đồi nhỏ thưa thớt, nơi đây có thể coi là vùng chuyển tiếp của ranh giới Nam Kỳ miền trung: sông ngòi ít ngoằn ngoèo, vài kinh rạch, thiên nhiên hoặc do người đào, chảy giữa các vùng núi và đồi nhỏ. Càng xuống dần phía nam thì chỉ thấy trước mặt một vùng đất mềm gồm cát, bùn và 5 con sông lớn cùng các kinh rạch thiên nhiên chia cắt thành hàng ngàn đảo. Cát thì được mang từ biển vào [16], bùn đất thì do sông Cambodge [17] bào mòn những vùng núi non chảy ngang đem bồi đắp trong mùa nước lũ. Trong quá khứ chắc rằng biển đã bao phủ cả miền Nam Kỳ ngày nay. Một vịnh hình vòng cung nằm lọt giữa hai vùng núi là Ha-tien[18] và cap Saint-Jacques[19]; sông Don-naĩ chỉ là một dòng thác; hai nhánh sông Vaĩ-co [20] tạo ra hai con sông riêng biệt. Tỉnh Long-hô (Vinh-luong) [21] lúc đó chưa thành lập; các tỉnh Gia-dinh [22], My-th25] chứng minh cho thấy vùng đất này trước kia do sông ngòi và biển tạo ra. Cát dồn lại thành cồn dọc bờ sông hòa với phù sa tạo ra ruộng đồng phong phú. Sự hình thành đất đai do sông ngòi vẫn còn đang tiếp diễn tại vùng này của xứ Annam, người Tàu gọi nơi đây là xứ sông ngòi; bùn và cát hòa lẫn nhau không phải là nước cũng không phải là đất. Những người Bắc Kỳ mạo hiểm đến đây dùng ván để trườn và lướt đi trên bùn.

Hai dãy núi kéo dài ra tới biển tại hai địa điểm là Phan-thiet và Ha-tien, giữa hai dãy núi là sông Cambodge. Biển là ranh giới thiên nhiên rõ rệt của xứ Nam Kỳ miền dưới. Tiếp giáp với xứ của người Mọi và xứ của người Chàm [26], nơi đây biên giới kém rõ ràng hơn. Khi nhìn vào bản đồ 6 tỉnh Nam Kỳ miền dưới, từ bờ biển hiện nay cho đến vĩ độ Tram-ban [27], người ta có thể nhận thấy biển vẫn còn giữ lại vết tích trong vùng đất phù sa; toàn vùng chỉ là đảo và chung quanh thủy triều dâng lên hay rút xuống đều nhận thấy rõ rệt. Tàu bè lưu thông như trên biển rộng; nước sâu, không nguy hiểm, các đường di chuyển được kẽ vạch rõ ràng.

Năm con sông lớn chảy ngang Nam Kỳ miền dưới đổ ra biển bằng một trong những cửa sông rộng lớn nhất thế giới: Năm con sông này gồm có sông Don-naĩ, sông Don-trang [28], sông Soi-rap [29], sông Vaĩ-co, sông Cambodge. Sông Cambodge bị ngáng bởi nhiều cồn chỉ có tàu bè đáy sâu dưới 14 chân [30] mới di chuyển được. Hướng và độ sâu của kinh rạch thay đổi theo mùa gió. Bờ biển thấp, cây cối xanh tươi và bằng phẳng; không một ngọn cây nào vượt cao hơn các cây đước, cây mắm để có thể dùng làm điểm chuẩn cho tàu bè định hướng. Khó khăn thiên nhiên cản trở lưu thông của tàu bè lớn nhưng không gây khó khăn gì cho các thủy thủ Annam, Xiêm, Tàu và Nhật. Họ lái các tàu ven bờ thật hay, tàu của họ có đáy rất cạn. Các nhà viết sử người Hòa Lan chép rằng sông Cambodge đổ ra biển bằng 3 cửa: cửa Umbequamme, danh xưng này theo tiếng Pháp có nghĩa là “bất tiện” Incommode, cửa Nhật Bản và cửa Saĩgon. Chiến tranh Nam Kỳ giúp thêm cho việc nghiên cứu địa lý thủy học của sông Cambodge; hiện nay người ta biết rằng sông Cambodge có 7 nhánh chính. Umbéquamme [31] là cửa đổ ra biển của một nhánh sông tách ra từ sông chánh gần Chau-doc [32], sông Nhật Bản gồm hai nhánh bắc và nam My-th35], xương rồng đầy gai tạo thành các bụi rậm mà người Âu châu không thể chui qua lọt, nhưng đối với người Annam thì họ trườn, bò và rình rập dễ dàng trong đó. Nhiều chỗ nước ăn sâu vào bờ kinh tạo ra những chỗ phục kích bất ngờ: đây là những nhánh kinh lấn sâu vào đất, nằm song song với kinh chánh, cửa vào thì có dây leo rũ xuống che kín; các hóc kẹt thiên nhiên đó có thể làm chỗ núp cho một người, một chiếc ghe hay một nhóm quân nhỏ: không có chỗ nào có thể làm chỗ phục kích chắc chắn hơn những chỗ như vậy. Kinh rạch tạo cho chiến tranh Nam Kỳ một bộ mặt thật riêng biệt. Lần đầu thấy những bờ kinh như thế, người ta tưởng dễ, thử phá gai lội bùn để vượt ngang, nhưng rồi sẽ bị ngập trong lầy, mặt mày rách nát, trở nên bất lực vì cỏ vừa mềm vừa cao quấn chặt; người ta tự hỏi không biết phải làm thế nào để chống lại quân phục kích, họ thì coi các chướng ngại này như không có. Các pháo hạm nhỏ bằng sắt là linh hồn của trận chiến Nam Kỳ, nếu không hữu dụng ngay trong khi hành quân, thì cũng rất ích lợi về sau là như vậy.

Quang cảnh của Nam Kỳ thật là bằng phẳng, buồn thảm, giống như tất cả các xứ đồng ruộng khác. Khi có một lỗ hở do cọp, nai đi ngang còn lưu lại thì tầm mắt mới vượt ra khỏi hai bên bờ kinh, nhưng cũng chẳng thấy gì lạ ngoài những cánh đồng xanh tươi đôi khi gợn sóng như mặt biển. Ðồng ruộng là đất Phật, chẳng có gì buộc chặt tâm hồn với đất đai. Thiếu chiều sâu của sự sống. Ðất nhường chỗ cho bùn; chỉ có tư tưởng mới có thể lướt đi trên vùng xanh tươi vô tận này mà thôi; xác thân sẽ lún chìm tại chỗ. Những cọng cỏ muôn thuở nối tiếp nhau, từng cọng một đều giống hệt như nhau. Trước cảnh sình lầy và bằng phẳng, nghị lực mềm yếu, chỉ có linh hồn tự vượt ra mà thoát đi. Quả thật là nơi phải gọi là cảnh toàn phúc tối thượng, xin tạm mượn chữ như vậy, - cái thoát tục vẹn toàn nhất, cái chấm dứt của buồn thảm, của nhớ nhung [36]. Tuy vậy, về phía bắc, khi đến gần một trong hai vùng núi, đất đai trở nên cao hơn, bờ sông cũng dốc hơn, rừng chen kẽ với ruộng đồng. Trong rừng có nhiều thứ dùng làm thuốc tàu, giá bán đắt hơn vàng.

Kinh rạch nối liền 5 con sông lớn ở Nam Kỳ tạo ra vô số đường di chuyển vô cùng hữu ích cho thương mãi, chiến tranh mà cũng tiện lợi cho đạo tặc nữa. Mỗi thị trấn đúng ra phải là một trung tâm vừa quân sự vừa thương mại, và nếu đúng như thế thì sự đánh chiếm của ta sẽ gọn gàng hơn; nhưng thật ra thì hai tánh cách này tách rời hẳn nhau: Saĩgon là trung tâm quân sự, My-thô là trung tâm thương mại. Các ghe thuyền của người Nhật, người Tàu, người Annam, người Xiêm có đáy cạn dễ di chuyển trên sông, nhờ vào địa điểm gần nơi sản xuất gạo, kinh lạch lại dồn hết vào sông Cambodge, thêm vào truyền thống của dân chúng địa phương từ bao nhiêu thế kỷ, tất cả góp lại làm My-thô trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam Kỳ miền dưới trước khi người Âu châu tới đây. Saĩgon, dựa vào thành lũy và vị trí nằm chắn ngang các đường ra Huế, lên Cao Miên và xứ Mọi đã trở thành trung tâm quân sự và hành chính của cả sáu tỉnh. Hai trung tâm thương mại và quân sự là Saĩgon và My-thô dựa vào nhau bằng đường thủy vận; đó là con kinh Tàu [37] mà tầm quan trọng chiến lược phải kể vào bậc nhất.

Saĩgon, nơi trước đây có trại binh nhỏ của Pháp và Tây Ban Nha bị phong tỏa, không hẳn là một thành phố theo đúng nghĩa của Âu châu. Saĩgon cũng không phải vị trí có thành lũy kiên cố, có tầm ảnh hưởng trải rộng như trước đây, vì đang bị ta phong tỏa và thành lũy thì hư nát, thành mới hiện nay kém hẳn tầm quan trọng [38]. Nơi các cơ xưởng đóng tàu, vào năm 1819, trước khi có giặc phản loạn, người ta còn thấy hai thuyền chiến lớn theo kiểu Âu châu và 190 thuyền chiến dùng chèo. Thành quách rộng lớn trước kia và cơ xưởng đóng tàu không còn vết tích gì nữa. Nhiều lắm là hai bên bờ sông Don-naĩ còn thấy vài cơ sở có tính cách tạm thời, là những vớt vát thu góp lại sau khi Touranne [39] bị ta chiếm đóng. Dân số, ngày xưa lên đến 150.000 người, đã rút xuống một cách đáng kể. Du khách đến Saĩgon sẽ nhận thấy trên hữu ngạn sông [40] một con đường đứt đoạn và hang lỗ. Nhà cửa phần lớn bằng cây, lợp lá dừa nước. Một số ít làm bằng đá có mái lợp ngói đỏ làm vui mắt và an tâm hơn. Tiếp đó là những mái chùa thật cong; kinh Tàu và hai kinh phụ, mặt nước phẳng lỳ, dùng làm bến cho thuyền bè trong xứ; vì bối cảnh chung quanh nên nhìn thấy kinh Tàu như ngắn hẳn lại; một nhà kho xiêu vẹo dùng làm chợ, mái hình như sẵn sàng đổ xuống phía bên phải. Hậu cảnh là những chòm cau có vẻ hoà hợp với bầu trời nóng bức; cây cối khác không có gì đặc biệt. Hàng ngàn ghe xuồng chen nhau ở bờ sông tạo ra một thành phố nổi nho nhỏ. Người Annam, người Tàu, người Ấn, vài người lính Pháp, lính Tagal tới lui nhộn nhịp, thoạt tiên tạo ra một quang cảnh ngoạn mục. Nhưng sau đó thì chẳng có gì để xem ở Saĩgon, họa chăng là dọc theo bờ kinh Tàu, có nhiều nhà bằng đá khá sạch sẽ và vài nhà xưa tránh khỏi giặc phản loạn tàn phá. Trong các khu nhiều cây cau đôi khi có nông trại của người Annam cất theo lối ba gian hai chái, rất thanh lịch và kín đáo; xa hơn, nơi khu đất cao là nhà của vị chỉ huy Pháp, của đại tá Tây Ban Nha, doanh trại của nho quan Annam; đại khái chỉ có vậy. Con phố lầy lội và ổ gà, nhà cửa thưa thớt, hợp lại thành một quang cảnh khá nghèo nàn, đó là Gia-dinh-thanh [41] mà ta gọi là Saĩgon [42]. Các thành phố khác như Batavia [43], Singapour, Hong-kong cũng chỉ như vậy thôi trước khi người Âu châu đến. Có thể rồi một ngày nào đó một thành phố đẹp đẽ và đông đúc sẽ mọc lên ở vị trí của cái làng Annam bị trận chiến diệt chủng tàn phá mà ta đang thấy hôm nay[44]. Trên vùng đất cao là vòng thành cũ do người Nam Kỳ xây năm 1837[45]. Hố sâu quanh thành chỉ bị lấp ở một vài chỗ; chỉ cần vét lại là xong. Nhà cửa bên trong thành đều đổ nát. Bụi trắng tạo thành hai lằn dài trắng xóa, ở giữa là lối đi. Ðó là gạo bị đốt cháy từ năm 1859 mà đến nay vẫn còn cháy [46]. Lửa âm ỉ 24 tháng mà vẫn chưa tắt. Các hạt gạo, ở một vài chỗ vẫn còn giữ nguyên hình dáng; nhưng thật ra đã hoá thành tro; gió hoặc chỉ chạm nhẹ sẽ làm tan ra thành bụi. Truyền thuyết cho rằng một kho tàng rất lớn còn nằm trong đống lửa lớn đó.

Thành phố Sài gòn nhờ vào vị trí địa lý và kinh tế chi phối đã vượt qua nhiều khó khăn và mâu thuẫn về hành chánh gây ra từ quyền lợi bất đồng giữa các phe nhóm. Saĩgon cũng đã khắc phục được những bất hạnh do chiến tranh gây ra. Nhờ nằm vào vị trí trung tâm nên từ Saĩgon đi Batavia, Manille, Hong-kong và Canton thật là ngắn và tiện lơi. Gió mùa giúp liên lạc dễ dàng với nước Tàu và nước Nhật; ta cũng biết rõ việc buôn bán của Nhật với đế quốc Annam trước đây hết sức tích cực, thời đó cũng chẳng xa gì trước ngày có sự hiện diện của quân viễn chinh. Những kẻ phiêu lưu người Âu châu ào ạt đổ đến Saĩgon, bất kể luật lệ gì áp dụng đối với họ, họ cứ ở lại, chẳng qua vì miếng mồi hám lợi. Người ta có thể nói rằng sáng kiến cá nhân có thể bù lấp cho những gì mà nguyên tắc không thực hiện được hoàn hảo [47].

Ðại tá Victor Olivier [48] xây đắp thành lũy cho Saĩgon ngay từ năm 1791; vị sĩ quan này là một trong số 20 người Pháp do Pigneau de Béhaine, giám mục hiệu tòa d’Adran, đưa tới đây. Nhóm người này là số vỏn vẹn thoát được từ một hạm đội 20 chiến thuyền và 7 trung đoàn quân Pháp đã bị toàn quyền người Anh tại Pondichery cầm giữ trên đường kéo đến Nam Kỳ. Lúc bấy giờ, hoàng đế Gia-long [49] đang tìm cách chiếm lại lãnh thổ của mình. Cũng chẳng phải là khó hiểu khi hoàng đế Gia-long quyết định tăng cường hệ thống phòng thủ Saĩgon, vì phòng thủ Saĩgon chính là kế hoạch chung chống giữ toàn thể Nam Kỳ miền dưới. Vùng lãnh thổ này của vương quốc Annam, vì địa thế thiên nhiên bất lợi, rất dễ bị người Xiêm La và người Cao Miên xâm chiếm, người Annam rất khó chống giữ. Năm con sông lớn chảy dài trên toàn vùng tạo ra đường lưu thông giúp quân xâm lược từ phía nam hay phía tây kéo đến để đánh. Người kỹ sư Pháp này đã tìm cách giảm bớt yếu điểm thiên nhiên thật tài tình. Ông ta tìm một vị trí trung tâm của toàn vùng, tức là thành phố Saĩgon, nằm trên bờ sông Don-naĩ, - nói vậy thôi chớ ông ta cũng có thể chọn một nơi khác được - và từ nơi này có thể đưa quân tăng viện nhanh chóng đến các điểm bị hăm dọa mặc dù sông ngòi cản trở. Ðồng thời ông cũng xây dựng một vòng thành ngay tại Saĩgon, nơi giao điểm của các đường tiến quân chiến lược, để tập trung người, lương thực, khí giới và đạn dược. Thành Saĩgon hình vuông, mỗi mặt có hai chặng phòng thủ. Bảy mươi tàu và một trăm ghe thuyền chuyên chở trong vòng 4 tháng được 60.000 tấn gạo cho thị trường Hong-kong và Singapour, đem đến một số lời khổng lồ cho ta. Ðồn Caĩ-ma [56], sân chùa có tường gạch chung quanh, tạm có thể phòng thủ được ngay. Chùa cách xa các tuyến phòng thủ của địch. Chùa thứ hai là chùa Clochetons [57] hoàn toàn trống trải và chỉ cách miệng đường hầm của địch có 400 mét. Ta liền lấy ngay đất ở mồ mả chung quanh đắp tường phòng ngự. Ta không thấy quân Annam đổ ra phòng ngự đường hố đã đào. Nhưng ngay ngày hôm sau bất ngờ nổ súng tủa vào chùa giết mất một người và làm bị thương thêm vài người khác. Mấy nấm mồ ta đã lấy hết đất, vì thế phải đi xa hơn và dùng bao để mang đất về; việc đắp tường phòng thủ tiến triển chậm chạp, cực nhọc, lộ liễu không có gì che tránh địch quân. Trong đêm mùng 3, rạng ngày mùng 4 tháng 7, quân Annam, ít nhất cũng đến 2.000 người, yên lặng vượt khỏi thành, bao vây chùa, trong khi đó chùa chưa biến hẳn thành đồn. Họ xông thẳng vào chùa, hò hét vang lừng. Hỏa pháo của địch cũng bắn vào các chùa khác [58] để làm thế nghi binh và đồng thời cũng bắn vào chùa Clochetons nữa, quân thì bắn xối xả vào người Pháp, người Tây Ban Nha và người Annam trong đồn. Ðánh giết nhau suốt một giờ đồng hồ. Nhờ viện binh từ Saĩgon kéo lên mới chấm dứt được trận chiến. Kẻ thù bỏ lại một trăm xác chết. Quân lính của đồn Clochetons gồm có 100 quân Tây Ban Nha do trung úy Hernandez chỉ huy, và 60 người Pháp do hai trung úy hải quân cầm đầu là Narac và Gervais [59]. Quân Annam không trở lại tấn công đồn Clochetons nữa; nhưng lại đào từ cửa hầm đôi một đường hố khác bọc song song phía sau đường phòng tuyến của ta. Do đó đồn Pháp và Tây Ban Nha lọt vào giữa hai đường hố phòng thủ của họ, chận hẳn đường thông thương với cánh đồng phía sau thành Ki-hoa.

Ngày 16 tháng 10 năm 1860, đại tá hải quân d'Aries đưa quân vào kinh Avalanche[60] (xem bản đồ 2) để thăm dò các đồn mà người Annam xây cất ngay gần tuyến phòng thủ của ta, vì khoảng cách quá gần nên ta dễ bị họ tấn công. Hai tàu nhẹ được dùng để tiến vào kinh, địch bắn rất rát nhưng vẫn tiến được tới một công sự có rào cản canh giữ điểm chốt gọi là "cầu số ba trên kinh Avalanche”. Bên ta không có người nào bị trúng đạn khi tiến tới đây; nhưng cuộc mạo hiểm nhỏ này kém may mắn hơn trên đường về; trung úy hải quân Hermand bị một viên đạn xuyên ngang đùi, vài người nữa cũng bị thương. Trung úy Rieunier đo độ sâu và vẽ bản đồ của kinh dưới lằn đạn đại pháo từ các đồn bắn ra; bản đồ này hết sức là bổ ích về sau.

 Toàn thể cánh đồng nằm giữa kinh Avalanche và kinh Tàu bị địch bủa vây bằng các đường hố dài và nhiều đồn canh gác bố trí cách khoảng nhau. Bất cứ chỗ nào có kinh rạch hay đường xá là người Annam lập đồn tại đó. Thượng lưu sông Don-naĩ bị chắn ngang. Trái với điều người ta thường nghĩ, hậu tuyến của hệ thống đồn lũy do người Annam thiết lập cũng được phòng thủ vững chắc như phía trước và hai bên cánh. Nói như vậy để cho thấy hệ thống phòng ngự của địch cũng có tầm quan trong tương đương với thành cũ của họ trước kia, chế ngự toàn vùng, kiểm soát hết các đường về My-thô, Huế và Cao Miên.

Liên lạc giữa quân Annam và thành phố Tàu vẫn duy trì thường xuyên. Từ thành Ki-hoa rộng lớn, đường hố tủa ra từ các cửa hầm giống như những cánh tay bóp nghẹt trại quân nhỏ của đồng minh tại Saĩgon, làm cho trại này bất lực mặc dù địch vẫn tỏ vẻ như bất động.

Thành Annam xây theo hình vuông, gồm năm khu riêng biệt liên lạc với nhau bằng các đường tắt thông thương. Vòng đai của thành là tường bằng đất có ụ bắn, cao 3 mét rưỡi, dầy 2 thước, có đục lỗ châu mai rất khít nhau; lỗ châu mai phần nở rộng lại ngược bên so với các lỗ châu mai của các thành quách Âu châu. Khí cụ phòng thủ được tích lũy ở khắp các mặt thành, nhưng chính yếu hơn hết là mặt trước và mặt sau. Nhờ các trận đụng độ ở Touranne ta biết khá đầy đủ các loại chướng ngại vật này. Thân tre và cả cành lá gai góc được sử dụng hết sức khéo léo; thân thì làm cọc nhọn cắm trong các hầm chông, hoặc cắm thành bàn chông, làm rào hoặc làm cọc; cành thì dùng bao phủ trên tường thành tạo ra một lớp rào chằng chịt đầy gai.

Vùng đất tỉnh Gia-dinh chung quanh thành Annam là đất dẽ và cứng, theo tin dọ thám do ta thu nhặt thì các giàn pháo chiến thuật có thể di chuyển được trên vùng đất này. Mùa mưa mà ta phải ngưng các hoạt động chỉ bắt đầu vào tháng 4. Còn về ảnh hưởng của thời tiết thì khó thẩm định rõ ràng; quân lính của ta vừa mới bảo vệ Saĩgon xong trải qua biết bao nhiêu cực khổ; đâu có thể quy hết cho thời tiết Nam Kỳ miền dưới là nguyên do duy nhứt gây bệnh tật cho toàn thể quân viễn chinh.

Phong tục và tánh tình người Annam ta biết rất ít; người Annam ta thấy ở Saĩgon có thân hình mảnh mai, và có lẽ thuộc vào một sắc dân suy hóa [61]. Họ chỉ có thói hư tật xấu mà thôi, mưu mẹo, thích cờ bạc và hám lợi. Nhưng thật ra có thể phỏng đoán tính tình người Annam đúng hơn qua sức kháng cự của họ trong vài trận đụng độ đã xảy ra. Họ tỏ ra đủ sức tự vệ, nhất là trong trận tháng 4 năm 1860. Ta cũng biết rằng chính phủ của họ rất nhất quyết, kiên nhẫn, mạnh và đoàn kết; họ được huấn luyện để tuân lời một cách mù quáng, tôn thờ một vị hoàng đế thiêng liêng quả quyết không bao giờ chịu lùi. Mặc dù có vài sự xúi dục do Tây phương châm vào[62], nhưng mầm nổi loạn ngấm ngầm từ lâu ở Bắc Kỳ vẫn không bộc phát. Quyền lực của hoàng đế Tu-duc [63] vẫn nguyên vẹn. Chính phủ ta từ Pháp thông báo cho vị tổng tư lịnh biết rằng vua Xiêm vừa tuyên chiến với đế quốc Annam và gởi ra trận 60.000 quân Xiêm. Ta sẽ thấy về sau cái thực lực của đạo quân này.

--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tức Đại đồn Chí Hòa. – TN

[2] Nguyên bản là “Tonquin". – TN.

[3] Tức Giao Châu. – TN.

[4] Nguyên bản là “Pays aquatique". – ND.

[5] Tức "Ðàng Ngoài". - ND.

[6] Nguyên bản là “Annam septentrional". – ND

[7] Nguyên văn bản dịch là “Annam”. – TN

[8] Nguyên văn bản dịch là “Annam miền trung”. – TN

[9] Tức "Ðàng Trong". - ND.

[10] Nguyên bản là “Annam méridional". – TN

[11] Nguyên bản là “La basse Cochinchine". – ND.

Nguyên văn bản dịch là “Annam miền dưới”. – TN

[12] Nguyên bản là “Cambodge". – ND

[13] Vương triều đương thời. – TG

[14] Theo cha xứ Alexandre Rhodes. - TG.

1 lieue = 1 dặm, dài 4,445km. - ND.

“Sang-koi” có lẽ là “sông Chảy”, còn “Song-ca” là “sông Cả”. – TN

[15] Tức Phan Thiết. – TN

[16] Trên phương diện Ðịa chất học không được đúng lắm, cát vẫn do sông ngòi bồi đắp. – ND

[17] Trong nguyên bản tác giả ghi là sông Cambodge. Tên ngày nay là sông Mekong, tác giả cũng dung tên sông Cambodge để chỉ chung cho sông Tiền Giang và Hậu Giang. – ND

[18] Tức Hà Tiên. – TN

[19] Tức Vũng Tàu ngày nay. - ND.

[20] Tức Vàm Cỏ. – TN

[21] Tức Long Hồ và Vĩnh Long. – TN

[22] Tức Gia Định. – TN

[23] Tức Mỹ Tho. – TN

[24] Tức An Giang. – TN

[25] Tức Tây Ninh. – TN

[26] Nguyên bản là “Moys” và “Kiams”. – ND

[27] Có khi tác giả viết là Tram-bam hoặc Tran-bam (tức là Trảng Bàng ngày nay), Vĩnh Long thì có khi tác giả viết là Vinh-luong hay Vinh-long, chúng tôi xin giữ theo nguyên bản trong từng trường hợp. – ND

[28] Tức sông Đồng Tranh. – TN

[29] Tức sông Soài Rạp. – TN

[30] Ðơn vị đo lường : dài khoảng 0,3248m. - ND. Nguyên bản ghi là “Pied”. – TN

[31] Đây có lẽ là cửa Định An của sông Hậu. – TN

[32] Tức Châu Đốc. – TN

[33] Sông Nhật Bản có lẽ là sông Mỹ Tho và 2 cửa sông nêu trên có lẽ là cửa Đại và cửa Tiểu của sông Tiền. – TN

[34] Liễu và cây hoa trà (camellia: trong nguyên bản) là các cây vùng ôn đới thường thấy ở Âu châu. – ND

[35] Nguyên bản ghi “aloes”. – ND

[36] Ðây có thể là tâm trạng của người tha hương đi chinh phạt nơi xứ lạ quê người (?). Dân địa phương sinh ra ở đây, lớn lên ở đây, đều thấy thương yêu và gắn bó với mảnh đất sình lầy của mình. Biết bao nhiêu người đã ngã xuống những mảnh ruộng ngập sình để bảo vệ quê hương mình. Trên mảnh ruộng bằng phẳng họ thấy gần gũi với nhau hơn, thương yêu nhau hơn. Thân xác họ không lún xâu xuống bùn mà họ biết dùng xuồng để đi thăm hỏi nhau, giúp đỡ nhau, không cần phải đắp đường xá gì cả. Linh hồn họ không cần lướt đi đâu hết, vì tâm hồn họ gắn bó với từng cọng cỏ dưới chân họ, mặc dù từng cọng cỏ đều giống hệt với nhau. - ND.

[37] Nguyên bản ghi “Arroyo Chinois”. – ND. Người Việt gọi là “rạch Bến Nghé”. – TN

[38] Công trình mới xây dựng sau này. – TG

[39] Tức Ðà Nẵng ngày nay. - ND.

[40] Bờ bên phải kể từ nguồn đổ ra biển. - ND.

[41] Tức Gia Định thành. – TN

[42] Ðây là phác họa quang cảnh chung của Saĩgon vào tháng hai 1861. Kể từ lúc ấy về sau, nhiều công trình được thực hiện, phần lớn do công binh. Cánh đồng được tháo nước bằng mương rãnh. Ðường phố rộng, đẹp, như những đường cái quan, tạo ra phố xá Saĩgon; chắc rằng nhà cửa rồi đây sẽ mọc lên. Xưởng tàu được thành lập. Tuy thế những xây dựng này cũng không làm thành phố thay đổi bao nhiêu khi nhìn từ dưới sông lên: cũng vẫn như xưa, không có gì cho thấy đây là một thành phố; trước mặt chỉ là một phong cảnh bằng phẳng, không có cá tính gì đặc biệt, sự hiện diện của người ở cũng chỉ thấp thoáng mà thôi. – TG

[43] Tức Jakarta ngày nay. - ND.

[44] Viết theo báo le Cambodge annamite (Cao Miên Nam Kỳ) năm 1835. - TG.

[45] Tức thành Phụng. – TN

[46] Xin mạn phép thêm vài chi tiết cho rõ ràng vì tác giả cố ý viết một cách mập mờ. Thật sự người Pháp đã khởi đánh Nam Kỳ từ năm 1858. Vào lúc quân Pháp và đồng mình dồn toàn lực để đánh Tàu thì de Genouilly đem quân đánh Đà Nẵng, nhưng không có người nổi dậy tiếp tay như mong đợi. Vì không đủ sức giữ Đà Nẵng, quân lính lại bị sốt rét, dịch tả, kiết lị, chết nhiều, de Genouilly bèn đem quân vào đánh Sài Gòn, đốt kho gạo… Vì quân ít không đủ giữ thành Sài Gòn nên ông ra lênh phá thành và xây đồn nhỏ hơn để phòng thủ và chờ tiếp viện. – ND

[47] Câu này không liên hệ gì với đoạn vừa viết, chỉ là câu chuyển để tóm tắt và giới thiệu đoạn tác giả sắp viết bên dưới, tiếc rằng câu chuyển tiếp không được khéo lắm. Ðây là cách viết văn khá xưa. - ND.

[48] Victor Olivier de Puymanel (1768-1799), tên Việt là Nguyễn Văn Tín, từng được chúa Nguyễn Ánh phong chức Cai đội, nên còn được gọi là Cai Tín. Về sau, ông được phong chức Thuộc Nội Vệ úy, hàm chánh Tam phẩm, tài liệu Pháp ghi thành "Colonel de la garde royale". – TN

[49] Đúng ra là chúa Nguyễn Ánh, vì mãi đến năm 1802 ông mới lên ngôi Hoàng đế với hiệu Gia Long. – TN

[50] Tức thành Quy. Đúng ra thành có 3 lớp bảo vệ: ngoài cùng là một lớp lũy bằng đất, một lớp hào nước, rồi đến mới đến tường thành bằng đá. – TN

[51] Nguyên văn bản dịch là “tả ngạn sông”. Có lẽ dịch giả nhầm. Nguyên bản ghi là “le rive droite” – TN

[52] Tức đồn Hữu Bình, còn có tên gọi là đồn Vàm Cỏ hay đồn Giao Khẩu ngày nay ở vào khoảng dưới chân cầu Tân Thuận. – TN

[53] Cảng Saĩgon được mở cửa ngày 22 tháng hai năm 1860. – TG

[54] Tức đồn Cây Mai. – TN

[55] Tức vùng Chợ Lớn ngày nay. – TN

[56] Nguyên bản ghi “La pagode des Mares". Tên tiếng Annam không rõ, người Pháp đặt là chùa Ao vì có nhiều hồ và ao chung quanh? Quân Pháp thường chiếm các chùa để làm đồn vì là các kiến trúc có sẳn, xây gạch, cao ráo và rộng rãi. - ND.

Đây chính là vị trí thành Ô-Ma. Trước khi Pháp xâm chiếm thì là khu vực có chùa Kim Chương và đền Hiển Trung. Vị trí ngày nay là khoảng ngã tư Nguyễn Trãi - Cống Quỳnh, đại thể là nơi chùa Lâm Tế và văn phòng Bộ Công an phía Nam ngày nay. Có lẽ tác giả muốn nói đến đền Hiển Trung, do đây là nơi thờ các công thần thờ Gia Long chăng? – TN

[57] Tên của người Pháp đặt cho chùa và gọi là đồn của họ. – ND

Trước chùa có tên gọi là chùa Kiểng Phước. Nay dấu tích ngôi chùa đã không còn. Phỏng đoán vị trí của chùa nằm ở góc đường Lý Thường Kiệt và Hồng Bàng ngày nay, gần bệnh viện phụ sản Hùng Vương. – TN

[58] Cũng do quân Pháp chiếm làm đồn. - ND.

Có lẽ tác giả muốn nói đến Phòng tuyến các chùa (Lignes des pagodas) chăng? – TN

[59] Không thấy tác giả nói đến số thương vong của người Pháp và người Annam theo Pháp trong đồn. - ND.

[60] Tức kênh Thị Nghè. – TN

[61] Nguyên bản ghi “Race abâtardie"; "abâtardie" có nghĩa là thoái hóa, suy đồi. Mạn phép xin độc giả chú ý để so sánh với các đoạn tác giả viết về người Annam ở chương IX. – ND

[62] Có lẽ tác giả biết thừa Tây phương ở đây tức là nước nào, ai xúi dục và xúi giục ai nổi dậy chống lại triều đình Huế, nhưng tác giả không muốn viết ra đấy thôi. – ND

[63] Tức Tự Đức. - TN

                                                                          (Tiếp Theo)


Thứ Năm, 10 tháng 12, 2020

 

Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

Người dịch: Hoang Phong

Nguồn: http://www.vuontaodan.net/thuviensach.


Nguyên là một quyển sách do nhà Hachette tại Pháp xuất bản năm 1864. Sách khá xưa, vì thế tôi xin phép được dài dòng kể lại vì đâu lại có quyển sách này trong tay.

Tại Pháp, cứ mỗi năm một hai lần các làng xã tổ chức ngày bán đồ cũ. Ðó cũng là dịp dân trong vùng gặp nhau trò chuyện. Nhà nào có đồ đạc không dùng thì đem ra bán rẻ. Hoặc nhà nào dọn dẹp kho, tầng hầm, nhà xe, có thứ gì không dùng cũng đem ra bán. Có những gian hàng ăn uống vui như ngày hội. Tôi thích đi thơ thẩn dạo xem người lớn gặp nhau, trẻ con nô đùa, xem những thứ lỉnh kỉnh bày la liệt trên mặt đất, những vât kỷ niệm của ông bà họ từ xưa, những đồ dùng trong nhà còn mới hay đã hỏng. Bỗng đi ngang gian hàng của một người thanh niên còn trẻ, anh ta vọt miệng hỏi tôi:

- Ông có mua sách cũ không?

Tôi nhìn thấy trên mặt đất cạnh chân anh chỉ có độ mười quyển sách. Anh ta hiểu ý ngay và giải thích với tôi rằng:

- Có một người buôn bán sách cũ chuyên nghiệp vừa mua hết, chỉ còn có từng đó.

- Anh cho phép tôi lựa nhé!

Chưa kịp ngồi xuống xem thì anh ta đã nhanh nhẹn cúi xuống nhặt lên một quyển sách đưa cho tôi. Quyển sách mốc meo, ẩm uớt, tuy đóng bìa cứng nhưng đã rách nát. Nể nang đứng lại vì lời mời của anh, bây giờ lại nể nang vì anh ta chìa cho tôi quyển sách trước mặt. Quyển sách mốc xanh rất bẩn,

ì lịch sự tôi phải cầm. Lật ra trang đầu:

 

Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861

 

Tôi ít khi đọc sách vớ vẩn, nhưng dù sao thì quyển sách này cũng nói về quê hương tôi, biết đâu có một vài chi tiết hay hay về lịch sử.

Từ ngày nhỏ tôi rất ghét môn sử, không bao giờ thuộc bài. Sử của một nước mà tôi không biết nó ở đâu, địa danh của một trận đánh cũng chẳng biết nó chỗ nào, năm ngàn người chết hay mười ngàn người chết thì cố nhớ để trả bài thế thôi, nếu vô phước mà thầy gọi trúng tên.

Ðã mua thì phải đọc. Nhưng càng đọc thử lại càng thấy nhiều xúc cảm dâng lên trong tôi. Những xúc cảm rất phức tạp, vừa đau đớn, vừa hãnh diện, vừa mỉm cười. Ðau đớn cái đau đớn của tổ tiên tôi, hãnh diện cái hãnh diện của dân tộc tôi, mỉm cười trước cái ngây ngô của lịch sử, cái thật thà dễ thương của con người. Có khi nước mắt chảy quanh nhưng cũng có khi phải bật thành tiếng cười.

Vì thế đã nảy ra cái ý dịch quyển sách này để những người đồng hương với tôi có dịp chia xẻ những cảm xúc trong tôi

Tác giả có lối văn rất xưa, rắc rối và bóng gió, thường hay dùng chấm phẩy ( hai chấm “ câu và ý dài dòng, tôi cố gắng, nếu có thể được, giữ nguyên cách hành văn và cả cách chấm câu của tác giả khi dịch. Cố giữ lối trình bày ý tưởng của tác giả, nhưng cũng phải chuyển thành tiếng Việt Nam thế nào cho gọn gàng, dễ đọc. Câu nào "nửa Tây nửa ta” thì xin độc giả tha thứ.

Cuối trang thỉnh thoảng có ghi chú, nếu là ghi chú của tác giả thì tôi không thêm gì cả, nếu ghi chú của người dịch, trong mục đích giúp người đọc dễ theo dõi câu chuyện, thì tôi ghi rõ là: (ghi chú của người dịch). Nếu có ghi chú của tác giả lẫn lộn với ghi chú của người dịch thì tôi ghi cả hai cho rõ ràng.

Tên người và địa danh tôi giữ nguyên theo thời đó và theo cách viết trong sách, không thay đổi.

Sách có 10 chương, 3 trang hình vẽ và phần phụ lục. Hình 1 là bản đồ sáu tỉnh Nam Kỳ vào thời đó. Hình 2 là bố trí của đại đồn Chí Hòa [1], thành phố Saigon-Chợ Lớn và hệ thống sông ngòi chung quanh, rất tiếc là trong quyển sách rách nát của tôi tờ hình số 2 đã mất. Hình 3 là thành Mỹ Tho và hệ thống sông ngòi.

Phần phụ lục gồm có 6 phần và sau hết là Sổ tang:

Phụ lục I: Danh sách tổng tham mưu của toàn thể hạm đội đánh chiếm Nam Kỳ đặt dưới quyền chỉ huy của phó đô đốc [2] Charner, tên từng chiến hạm và sĩ quan chỉ huy, chức vụ và cấp bực của mỗi người, (danh sách chỉ có các sĩ quan chỉ huy trở lên, từ cấp bực hạ sĩ quan trở xuống không ghi, gồm 20 trang trong nguyên bản). Tôi xem như một tài liệu tham khảo nên không dịch.

Phụ lục II: Danh sách, tên tuổi, cấp bực, toàn bộ Quân đoàn viễn chinh Nam Kỳ, từ vị Chỉ huy trưởng [3] tức phó đô đốc Charner đến các sĩ quan cấp dưới, lữ đoàn, trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội, ban tham mưu, hành chính v.v., từ cấp hạ sĩ quan trở xuống không có trong danh sách, (tất cả 14 trang trong nguyên bản). Tôi không dịch phần này

Phụ lục III: Danh sách những quân nhân được tuyên dương công trạng, (3 trang trong nguyên bản). Tôi chỉ dịch lời tuyên dương của phó đô đốc chỉ huy trưởng, không nêu tên từng người.

Phụ lục IV: Chỉ dụ của hoàng đế Tự Ðức (ngày 4 tháng 11 năm 1860). Tôi cố gắng dịch ngược trở lại thành tiếng Việt, (3 trang trong nguyên bản).

Phụ lục V: Cách xây dựng thành trì của người Annam (gồm 3 trang trong nguyên bản). Phần này có phiên dịch.

Phụ lục VI: Quân điền [4] và dân quân Ðồn điền Annam (8 trang). Phần này có phiên dịch.

Sổ tang: Tất cả những người Pháp gục ngã ở Nam Kỳ miền dưới cho đến năm 1862. Dịch những dòng mở đầu sổ tang của tác giả. Sổ tang gồm ba phần (không dịch):

Phần 1: Danh sách những người tu hành, chức vụ, ngày chết (5 trang trong nguyên bản)

Phần 2: Danh sách quân nhân thuộc hải quân, cấp bực, ngày chết (25 trang trong nguyên bản)

Phần 3: Danh sách quân nhân thuộc lục quân, cấp bực, ngày chết (35 trang trong nguyên bản)

Cuối sách tôi xin phép độc giả được ghi thêm một vài cảm nghĩ của tôi để làm phần kết luận

Tôi không ngồi đối diện với tác giả để tìm hiểu và hỏi han tác giả. Tôi xin phép được ngồi một bên bàn với tác giả để cùng nhau lật lại một vài trang sử nhỏ của quê hương tôi. Tác giả kể cho tôi nghe những gương oai hùng của người lính viễn chinh, tôi cũng len lén mượn ngòi bút của tác giả để mô tả lại những giọt máu của tổ tiên tôi, những giọt máu rơi rớt trên những thửa ruộng sình lầy. Hình như những giọt máu ấy vẫn còn âm ấm trong tôi.

Bures-Sur-Yvette, 08.03.00

------------------------------------
[1] Nguyên văn bản dịch là “thành Kỳ Hòa”. – TN

[2] Nguyên văn bản dịch là “phó thủy sư đề đốc”. Thực ra, cấp bậc của Charner lúc bấy giờ là “Vice-amiral”, dịch là “Phó đô đốc”. Về sau này, Hải quân Pháp sau này có thêm cấp bậc trên Phó đô đốc là “Vice-amiral d’escadre”, dịch là “Phó thủy sư đô đốc”. Vì vậy, ở bản hiệu đính sẽ sửa chữa các lỗi này để tránh nhầm lẫn. – TN

[3] Nguyên văn bản dịch là “nguyên soái”. – TN

[4] Nguyên văn bản dịch là “Nông trại quân đội”. - TN

 



CHƯƠNG I

Ðề cương:

 

Ngưng chiến ở Bắc Kinh giúp các lực lượng Pháp rảnh tay - Phó đô đốc Charner được Hoàng đế đề cử thống lãnh viễn chinh Nam Kỳ [1] - Các lực lượng viễn chinh tổ chức trở lại, rời nước Tàu đến Saĩgon trong những ngày đầu tháng 2 năm 1861.

Hoàng đế Hien-fung [2] bất thần đào tẩu về Zhe-hol [3] nơi tận cùng xứ Mãn châu làm quân đồng minh hết hy vọng thương thuyết với Thiên Quốc. Quyết định cực đoan của Hoàng đế nước Tàu gây ra mối hiểm nguy lớn nhất cho việc tiến quân của lực lượng đồng minh lúc bấy giờ. Tương lai cho thấy nhiều điềm xấu và tối tăm: quân đồng minh đang lâm vào một cuộc chiến man rợ, kéo dài nhưng muốn chấm dứt trong danh dự cũng thật khó khăn. Mùa đông đã báo hiệu và mọi người đều biết sẽ vô cùng gay go trên đất Tàu, buộc ta phải chọn một quyết định. Lực lượng đồng minh vì thế phải rút lui, đóng quân chặt chẽ tại Tien-tsin [4], thiết lập liên lạc với căn cứ hành quân trên bờ biển qua các ngõ Tien-kou, Sing-ko, Takou [5]. Lực lượng hải quân cũng bắt buộc phải chuẩn bị theo để hứng chịu mùa đông.

Bộ mặt mới của tất cả mọi việc sẽ thay đổi hết, tùy thuộc vào những yếu tố mới, tức việc tiếp xúc với Hoàng tử Kong [6], từ tánh tình, vị thế vương quyền của ông ta cho đến kết quả trung gian của một lực lượng Âu châu liên hệ thân hữu từ lâu với nước Tàu [7]. Ngày 25 tháng 10 năm 1860, nam tước Gros, huân tước Elgin và hoàng tử Kong cùng ký một hiệp ước hoà bình. Hiệp ước thành công nhờ sự dàn xếp của tướng Ignatieff [8]. Nhờ vậy tình trạng tháo mở, quân đội của hai cường quốc được giải tỏa [9]. Lực lượng hải quân và một phần đội quân viễn chinh của ta được rảnh tay để kéo xuống đập vào Nam Kỳ với mục đích củng cố vị thế thống lãnh của Pháp ở phần đất Á châu này.

Hoàng đế [10] giao phó việc chỉ huy viễn chinh cho phó đô đốc hải quân Charner. Phó đô đốc Charner liền tổ chức lại lưc lượng hải quân do chính ông làm chỉ huy trưởng từ lúc mới khởi đầu cuộc chiến tranh với Tàu. Ông thành lập hai sư đoàn lớn. Sư đoàn thứ nhất gọi là Sư đoàn Tàu, lo việc bảo vệ và canh giữ Ta-kou, Tche-fou, Shang-ha13] cho trại binh Saĩgon. Theo các tin tức mới nhất thì quân trại Saĩgon càng ngày càng thiếu nhân lực, việc canh phòng khó khăn vì vòng đai phòng thủ rộng. Ðoàn quân đổ bộ trước kia đã tiến chung với quân đồng minh vào Bắc Kinh được giải thể. Thủy quân đánh bộ cũng tách ra khỏi quân đoàn viễn chinh trên đất Tàu để tăng cường một phần cho trại quân Ta-kou; phần còn lại chuyển đến Canton, và sau đó là Saĩgon. Tướng Jamin [14] cùng với trung đoàn bộ binh 101, tiểu đoàn 2 bộ binh, một giàn pháo binh 12 khẩu, một giàn pháo binh 4 khẩu, một đại đội công binh và một nửa bộ phận hành chánh được chuyển về Shang-haĩ. Tướng [15] Collineau được chỉ định chiếm đóng Tien-tsin với đoàn lục quân 102, hai giàn pháo binh, một đại đội công binh, một số kỵ binh và một nửa còn lại của bộ phận hành chánh. Chiến thuyền Forbin giao cho tướng [16] Cousin-Montauban, vì ông này muốn thanh tra vài nơi tại Nhật Bản trước khi quay về Shang-haĩ.

Việc điều động lực lượng vừa kể đột nhiên làm mất tầm quan trọng chiến lược của Tche-fou. Trong suốt cuộc viễn chinh Tàu, Tche-fou là kho lương chính của quân đội. Nay kho lương này chỉ còn dùng để tiếp tế cho các chiến hạm trong vùng, cho toán quân phòng ngự địa phương và cho vùng sông Pei-ho [17] khi cần tới. Tuy vậy vị trí này còn giữ một tầm quan trọng khác; trong thời gian mà vịnh Pe-tche-li và sông Pei-ho bị đóng băng thì phải dùng ngõ Tche-fou để liên lạc với Tien-tsin.

Các vấn đề chi tiết được giải quyết giữa các chỉ huy trưởng thuộc các tổng tư lịnh hải quân và quân đội. Công cuộc chuyển quân lên tàu để trực chỉ Nam Kỳ bắt đầu, mặc dù băng giá, xa bờ và bão tố.

Gió thổi gần như liên tục từ ngoài khơi vào; sóng đứng trên đáy biển bùn, chuyển thành sóng đập, tạo sình lầy gây thật nhiều trở ngại cho việc chuyển quân; nếu sóng lăn và dài thì ít gây khó khăn hơn. Khí lạnh đã bắt đầu gay gắt: dây thừng trên tàu đóng đá và sàn tàu cũng đông đá trơn trợt; ban ngày cũng thường đóng băng; ban đêm hàn thử biểu tuột xuống đến mười hay mười hai độ dưới số không. Thủy thủ đoàn của các pháo hạm lớn từ Nam Kỳ vừa đưa tới đây, vì đã quá mệt mỏi sau hai năm chiến đấu dưới khí hậu nhiệt đới, nên phải chịu cam khổ vô cùng. Vào khoảng 20 tháng 11, nước đá bắt đầu bít sông Pei-ho. Pháo hạm Alarme bị một cơn gió mạnh làm mắc cạn trên bãi ngay phía trước Ta-kou, mất luôn bánh lái và một phần đuôi tàu. Hộ tống hạm Alom-prah gặp khó khăn vì chân vịt không sử dụng được. Pháo hạm Fusée bị kẹt băng trên sông Pei-ho, sau đó nhờ một trận nước lũ bất ngờ mới thoát ra được, nhưng khi ấy thì việc chuyển quân đã thực hiện xong, cả đạo quân lên đường hết rồi.

Một phần quân số và hành trang được chuyển lên tàu từ một địa điểm cách bờ 6 hải lý, vào đúng lúc cái lạnh của mùa đông càng ngày càng mãnh liệt. Ðây là cuộc hành quân không chiến đấu khó khăn nhất mà hải quân ta đã thực hiện. Việc chuyển quân đánh dấu cuộc viễn chinh nước Tàu đã chấm dứt, chuyển sang chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Nhưng thật ra thì việc chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ được điều động ở Sha-lui-tien cách Bắc Kinh 60 dặm và cách Saĩgon đến 800 dặm [18]: các đoàn quân dùng cho chiến dịch Nam Kỳ tiến về Sha-lui-tien, các pháo hạm bằng sắt cũng được kéo về nơi này. Pháo hạm bằng sắt loại nhỏ hết sức đắc dụng trong các trận chiến, đã góp công thật đáng kể vào các trận đánh buộc các đồn bót trên sông Pei-ho phải đầu hàng. Người ta thấy loại pháo hạm này ngược xuôi không ngừng trên sông, chuyên chở quân lính và tiếp liệu. Chúng hết sức hữu dụng ở bất cứ loại công tác nào giao phó. Cách đóng các pháo hạm bằng sắt vừa kể đâu có dự trù để dùng vào việc chuyên chở giữa bến Sha-lui-tien và các chiến hạm ở cửa sông Pei-ho; khoảng cách 6 hải lý, biển động, sóng lắc, tàu chòng chành một cách đáng ngại. Máy tàu không đủ mạnh để ngược sóng trong lúc gió mạnh, nhưng là một phương tiện vô cùng quí giá giúp tay cho người lính hải quân trên đường chiến đấu: pháo hạm đủ sức dùng làm tàu kéo, đôi khi cũng dùng để chở nặng. Nhờ các tàu này mà việc chuyển quân hoàn tất trong 20 ngày, mặc dù biển động, gió bão và trời lạnh. Các tàu này đã giúp thật nhiều cho thủy thủ đoàn khỏi ra tay chèo chống; thật ra thì thủy thủ đoàn dù có bắt buộc họ chèo họ cũng không đủ sức. Ở Nam Kỳ, nơi sông ngòi chằng chịt, vai trò của các pháo hạm sẽ còn cần thiết hơn nữa; ta có thể đoán trước rồi đây các tàu này sẽ là những phương tiện rất tốt vừa để chiến đấu vừa để tiếp vận trong cuộc chiến ở Nam Kỳ. Nhưng phải công nhận việc kéo những chiếc sa-lúp pháo hạm chạy bằng hơi nước, chỉ dự trù hoạt động trong vùng nước êm, suốt 800 dặm đường biển để đến Nam Kỳ, là một kinh nghiệm mới cho ngành hải quân. Súng đại bác, đạn dược, lương thực trên sa-lúp pháo hạm đều chuyển sang các tàu kéo. Các khe hai bên vách tàu được bít kín, than đem dồn về phía mũi tàu để khi kéo thì đầu tàu khỏi bị ngóc cao quá độ. Các sa-lúp pháo hạm đã vượt qua khỏi mọi thử thách, chỉ mất có hai chiếc bị chìm trên đường đến Nam Kỳ.

Trong khi đó các tàu lớn lần lượt ra khơi sau khi chuẩn bị xong. Tàu Saône chở cu-li từ Canton. Tàu Duchayla rời bến ngày 10 tháng 10 với nam tước Gros; cột chính của tàu có treo cờ quốc gia kích thước vuông có hình ngọn lửa [19]. Ngay ngày hôm sau, huân tước Elgin cũng đi Hong-kong. Ngày 1 tháng 12, tàu Némésis ra khơi quay về Pháp sau 5 năm hoạt động ở Tàu. Ðã có bao nhiêu người ra đi với chiếc tàu này mà từ nay sẽ không bao giờ trở về nữa!

Suốt thời gian hoạt động vừa kể trên, tàu Némésis đã tham dự vào tất cả các cuộc hành quân đánh phá ở Tàu và Nam Kỳ, sử dụng đại pháo và dùng cả thủy thủ đoàn của tàu để đổ bộ. Các tàu Renommée, Monge, Dryade, Dragonne, Forbin lần lượt ra khơi theo lịch trình đã định trước. Các tàu này sẽ thượng cờ Pháp khi đến Nagasaki và Yedo; phô trương thanh thế xong thì trực chỉ Woo-sung [20] hoặc Hong-kong.

Ngày 5 tháng 12 năm 1860, các toán quân chuyển từ Bắc Kinh, đúng ra phải đến đóng ở Shang-haĩ, lại đem lên tàu để đưa đi Nam Kỳ. Các tàu chiến cuối cùng của Pháp trong vùng cũng nhổ neo rời bến trên sông Pei-ho. Cửa sông hình phễu không thấy bờ bến đâu hết giống như ở giữa biển khơi, nước thì vàng khè vì phù sa sông Pei-ho và sông Peh-tang; cuối vịnh Pe-tche-li, mà người ta thường gọi sai là vũng tàu Sha-lui-tien, và cả sông Pei-ho trở nên vắng tanh, thật hiu quạnh sau khi hơn 400 tàu đã nhổ neo. Tàu Impératrice-Eugénie, kéo cờ hiệu của phó đô đốc Charner, tàu Echo dùng làm tàu truyền lệnh, cả hai lên đường đến Tche-fou, nơi đây chỉ cách Ta-kou hơn 60 dặm. Hai tàu đã đến nơi chiều ngày 6 tháng 12. Sau khi xắp xếp chi tiết công việc tại đây xong, phó đô đốc tổng tư lịnh cùng với hai tàu lại lên đường ngày 7, đến Woo-sung tiền đồn của Shang-haĩ vào ngày 10 tháng 12. Các chiến hạm khác chậm trễ vì công tác cũng lần lượt tới nơi. Chỉ huy trưởng viễn chinh là phó đô đốc

       Charner có toàn quyền gây chiến hay làm hòa với xứ Annam. Từ Hoàng Hải, eo biển Sakhaline, biển Nhật Bản cho đến eo biển Malacca và eo biển quần đảo Sonde, suốt 1800 dặm, tất cả tàu bè trương cờ Pháp phải chịu mệnh lệnh của ông. Trọng trách của ông rất lớn: vì tình trạng chiến tranh, vì cách xa mẫu quốc, thêm việc nắm giữ hai trọng trách một lúc, vừa là chỉ huy trưởng viễn chinh, vừa là sứ thần, thêm số chiến thuyền quan trọng dưới quyền chỉ huy của mình; tất cả các trách nhiệm hệ trọng đó đã góp phần làm chói lòa thanh danh của phó đô đốc. Chính đây là sự ủy quyền rộng rãi nhất từ thời Ðệ nhất đế chế, 1 chiến hạm [25] trang bị đại bác chạy chân vịt, 2 chiến hạm chạy chân vịt trang bị súng nặng đặt trên sàn tàu, 2 hộ tống hạm [26] loại một chạy chân vịt, 1 hộ tống hạm loại hai chạy chân vịt, 2 hộ tống hạm loại nh30], 2 tàu vận tải chạy chân vịt có trang bị mỗi tàu hai giàn đại pháo [31], 4 tàu chuyên chở ngựa chạy chân vịt, 11 tàu chuyên chở đại pháo chạy chân vịt, 1 tàu cơ xưởng chạy chân vịt. Tất cả là 68 chiến thuyền gồm 13 chạy buồm và 55 chạy chân vịt. Nhân lực gồm có 4 sĩ quan cấp tướng [32], 13 Đại t35], 105 Trung úy [36], khoảng chừng 100 chuẩn úy, 100 bác sĩ y khoa, 80 sĩ quan hành chánh, 8.000 lính thủy. Sức mạnh hỏa lực gồm 475 miệng lửa; sức mạnh mã lực của đội hải thuyền tổng cộng 7.866 mã lực. Nhiều tàu hơi nước của các công ty hàng hải thuộc vùng bán đảo và viễn đông được thuê bao để nối liền các cứ điểm từ bờ biển nước Tàu đến Nam Kỳ. Các tàu thuê đều phải mang cờ Pháp: vị tổng tư lịnh chọn lựa và biệt phái sĩ quan của mình giữ chức thuyền trưởng hoặc đại diện cho quân đội trên các tàu này. Tóm lại có 80 tàu buôn do nước Pháp thuê, chở lương thực, đạn dược, than, tạo thành một hải đội thương thuyền mà tầm quan trọng thật đáng chú ý tới.

         Ðiều không được may là một số các chiến hạm đã chiến đấu từ 4 năm nay, vài chiếc đã bước vào năm thứ 5. Thiết bị trên tàu ở vào tình trạng hư hao, các nồi hơi súp-de [37] của 4 pháo hạm lớn và 3 hộ tống hạm gần như rã rời từng mảnh. Tuy nhiên thủy thủ đoàn tốt, sĩ quan xuất sắc, rất thành thạo sau 4 năm chiến đấu. Có thể nói rằng họ tuy có mòn mỏi nhưng không phải là kiệt lực, họ được khích động bằng một luồng sinh khí anh hùng. Trong số các sĩ quan rời Pháp đã lâu, có nhiều người khi đến Tàu vẫn còn là vị thành niên. Họ già đi trong gian khổ và chỉ còn biết nước Pháp qua các bức tranh họ mang theo, họ cũng chẳng hiểu gì hết về thói tục của những dân tộc trước mặt họ, biết đâu họ cũng chỉ vô tình như những thủy thủ khác mà thôi. Những năm tốt đẹp nhất của đời họ đã trôi đi trong khắc khổ, thiếu hẳn sự gần gũi với xã hội chung quanh; sự chung đụng mà ta thấy nơi nào trên trái đất cũng có, nhưng tuyệt nhiên thiếu hẳn ở cái đất Tàu này. Chẳng có gì để làm rung động quả tim của người trai trẻ mới 25 tuổi đời [38]. Vì thế họ đành chú tâm đến những chuyện khác vậy. Họ kể chuyện xông pha chiến đấu, những thành tích xuất sắc trong ngành nghề của mình, họ bàn với nhau về bảng thăng thưởng. Rốt lại cũng là lợi lộc (tôi muốn nói ở đây là danh dự chớ không phải là tiền bạc) đã làm món mồi để lôi cuốn tham vọng, làm mất đi ý nghĩa hy sinh cao cả của đời họ, kể cả những sở thích riêng tư họ cũng phải hy sinh, nhưng lúc nào họ cũng sẵn sàng hy sinh thêm, họ coi giá trị của huân chương và cấp bực từ trên ban xuống thật xứng đáng với sự hy sinh của họ. Không còn ai non dại. Họ đều có vẻ rắn rỏi và năng hoạt; người nào trước kia dù có nông nổi cũng đã trở nên nghiêm trang hơn; nhiều người đúng ra đã bước vào tuổi thích nghỉ ngơi nhưng vẫn tỏ ra rất hăng hái. Họ dễ bị khích động vì vinh quang, vì danh dự để bảo tồn thanh danh của người thủy thủ; họ tạo thành một khối quân nhân đoàn kết chặt chẽ, nếu sau này có tan rã thì dù cho có gặp hoàn cảnh thuận lợi như trước cũng biết đâu không bao giờ còn tái tạo lại được một khối chặt chẽ như vậy, vì những người đã từng tạo ra nó không còn nữa. Không cần phải khó khăn tìm tòi, ta cũng nhận thấy họ là những người của biển cả, những chiến sĩ, những nhà địa lý thủy học, bác học, ngôn ngữ học; vị chỉ huy trưởng nào chẳng sung sướng thấy dưới tay điều khiển của mình có những đại úy thuyền trưởng [39] mới 30 tuổi, chiến đấu không ngừng với sóng gió trên mặt biển xứ Tàu, cặp bờ vào đất Shang-haĩ ở bất cứ thời tiết nào, mặc dù bờ biển nơi đây được coi là khó khăn nhất thế giới. Khả năng quyết định được đem ra thử thách liên tục ở mọi sự kiện, ngay khi hành động đang xảy ra, đã tạo cho mỗi người con đường đi lên. Người chỉ huy có thể trông cậy và tin cẩn ở những con người như thế.

           Công bố cuộc viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ với một lực lượng hùng hậu cũng giống như có một dòng máu mới bơm vào huyết quản của họ, những huyết quản đã bao lần sôi sục.

           Giai đoạn chuẩn bị viễn chinh Nam Kỳ làm bùng dậy tinh thần đồng đội; nhiều người đã từ lâu được quyền trở về Pháp cũng không muốn nhắc đến chuyện này. Người nào cũng muốn dự phần vào các cuộc hành quân sắp diễn ra.

         Woo-sung là một làng Tàu nghèo nàn ở ngã ba sông Yang-tze[40] và Wam-poo[41]. Làng là bến đậu và chỗ họp của hạm đội. Vùng đồng ruộng chung quanh thật bằng phẳng, chỉ hơi nhấp nhô một vài nơi: gồm có ruộng lúa và ruộng trồng bông vải thấp lè tè. Cảnh vật buồn tênh. Tất cả sinh hoạt đều dồn trên mặt sông Shang-haĩ, thuyền buồm ngược xuôi không ngừng; nhiều chiếc trọng tải đến 300 tấn: có đủ khả năng đi biển, rất linh hoạt, xoay trở thật tài tình nhờ bánh lái có đục lỗ. Tàu bè Âu châu từ khắp nơi trên thế giới đến, xuôi dòng trên sông nhưng thường thì không ghé vào Woo-sung. Hải quân bỏ neo thành hàng dài thật oai nghiêm bên phía tả ngạn vì nước sâu hơn; phía hữu ngạn nước cạn có nhiều cồn. Từ trên cột buồm của chiến hạm Impératrice-Eugénie có thể nhìn thấy thành phố Shang-ha {44] de Vassoigne sẽ chỉ huy các binh đoàn viễn chinh, dưới quyền của vị chỉ huy trưởng. Bộ binh, lính đánh bộ người Phi châu, pháo binh, công binh, hậu cần gồm chung là 85 sĩ quan, 1.303 quân sĩ, 272 vừa ngựa vừa lừa [45]. Quân sĩ rút bỏ các đảo Chu-san. Biệt đội bộ binh đóng giữ các hòn đảo này sẽ chuyển về Hong-kong. Ðội thủy quân lục chiến trước đây đặt dưới quyền chỉ huy của đô đốc do một quyết nghị chung của đồng minh ở Ta-kou, gồm 800 người [46], nay đem sát nhập vào binh đoàn viễn chinh. Một sĩ quan tùy viên quân sự của bộ tổng tham mưu được biệt phái thêm cho binh đoàn [47] để bảo quản việc điều động quân lính và thực thi quân kỷ trong các cơ quan. Công tác lập doanh trại, cứu thương, lương thực sẽ do ủy ban kế toán quân đội đảm trách, ủy ban do một vị phụ tá quân nhu trưởng chỉ huy. Sở ngân khố và bưu điện được thiết lập thường trực tại Saĩgon. Một viên chức liên lạc được đặt tại Singapour để tiếp nhận công hàm, văn thư từ Âu châu chuyển sang Nam Kỳ.

           Như vậy là binh đoàn viễn chinh đã được tổ chức xong. Nếu kể thêm đội thủy quân lục chiến sẵn có trong thành phần quân lính đóng tại Saĩgon, cùng với ban chỉ huy đã thành thạo của đội ngũ này, thì số binh đoàn nhỏ tại Nam Kỳ cũng đã tăng lên đến 4.000 người. Hiển nhiên đây là một binh đoàn [48] đủ sức tiến lên, chiến đấu, cắm quân và tiếp tục chiến đấu nữa; không như các toán quân mà sáng thì đổ bộ, chiều phải rút về điểm xuất phát, nếu muốn sống còn.

          Kinh nghiệm ở bắc nước Tàu đã cho thấy sự ích lợi của phu khuân vác người Tàu. Dưới khí hậu nóng bức, nhiễm độc vì bịnh sốt rét kinh khiếp này, bọn cu-li[49] lại còn cần thiết hơn nữa. Vì thế ta có chiều hướng đặt người Âu châu giữ vai trò chiến đấu mà thôi. Một đội quân đánh thuê gồm 600 người được tuyển mộ và huấn luyện do đại tá hải quân[50] chỉ huy trưởng Canton là Coupvent-Debois đảm trách.

          Tiền bạc, lương thực, than được tồn kho và phân chia cất giữ ở Hong-kong, theo những chỉ thị và tiêu chuẩn đặc biệt thích nghi và phù hợp cho nhu cầu của cuộc viễn chinh Nam Kỳ. Chuẩn đô đốc Page nhận chỉ thị phải cho lịnh các tàu chiến từ Pháp sắp đến đây phải chuyển vào Hong-kong 13.000 đồng tiền [51] Mễ Tây Cơ mà các tàu này mang theo. Tàu Persévérante giữ trọng trách cất giữ số tiền đã được chia cho Pháp quy định trong hiệp ước Tien-tsin và thỏa ước Bắc Kinh. Bốn trăm ngàn khẩu phần lương thực tồn trữ ở Hong-kong xem như đã đủ cho số lượng phòng cơ. Tất cả các tàu chuyên chở lương thực phải được gởi về Saĩgon. Trong số 8.000 tấn than trên các tàu của chính phủ Pháp thuê đang cặp bến Hong-kong, thì 4.000 tấn được chuyển lên bờ, 4.000 tấn còn lại phải chở đến Saĩgon.

             Ðể kết thúc bảng thống kê chuẩn bị cho cuộc viễn chinh Nam Kỳ cũng phải kể ra đây phần đóng góp của nước Tây Ban Nha. Trước đây đội ngũ người Tây Ban Nha đóng tại Saĩgon thu hẹp chỉ còn 230 bộ binh. Phó đô đốc Charner thông báo các việc đang được chuẩn bị và đã được thực hiện đến đại tá đại diện toàn quyền Hoàng gia Thiên Chúa Tây Ban Nha là Palanca Gutierrez, cùng viên toàn quyền Phi Luật Tân. Sau đây là lời ông nói với đại tá Palanca, người mà ông vẫn giữ mối liên lạc cá nhân quí mến và thân thiện: “Người Tây Ban Nha là những người đồng minh chớ không phải là thành phần phụ thuộc. Nhưng không thể nào có chuyện phân chia lãnh thổ Saĩgon được. Phải chờ sau này và ở một nơi khác, tức là Tonquin [52], thì Tây Ban Nha mới có thể được đền bù cho sự hy sinh vinh quang của mình. Ðó là tinh thần các chỉ thị của Hoàng đế Nã Phá Luân ban xuống”. Còn về việc đánh nhau thì đô đốc kêu gọi đến tinh thần nhất trí. Ông tin vào sự hợp tác mà vị toàn quyền Tây Ban Nha hứa hẹn. Nói với đại úy đại diện Phi Luật Tân, vị thủ lãnh viễn chinh cũng đòi hỏi một tinh thần như vừa kể. Theo thứ tự ưu tiên ông đòi phía Tây Ban Nha phải gởi thêm cho ông 150 kỵ binh, 400 lính bộ và 300 thủy binh gốc người Tagal [53]. Manille phải đặc biệt cung ứng 150 kỵ binh cả người và ngựa; cũng dễ hiểu là vai trò của kỵ binh rất hữu ích ở Nam Kỳ. Sự tăng viện này đã không hề xảy ra. Nhưng bù lại, đô đốc tìm thấy nơi đại tá Palanca Gutierrez một sự hợp tác trung thành và nhiệt tâm, điều này giúp ông có thể tin cẩn vào tinh thần hào hiệp của vị sĩ quan Tây Ban Nha.

              Tất cả các công tác không liên quan gì đến chiến dịch viễn chinh cũng được giải quyết ở Woo-sung. Các chiến hạm Prégent, Dordogne, Gironde lên đường thực hiện công tác riêng. Chiến hạm Prégent được biệt phái đến Fou-chow-fou [54], trên bờ biển Fo-kien [55] để nhận tiền bồi thường cho nước Pháp đã được quy định trong hiệp ước Bắc Kinh. Chuyện này thật gai góc, nhưng đã được thực hiện tốt và thành công. Tàu Prégent là chiến hạm Pháp đầu tiên xuất hiện trên sông Min [56], hai bên bờ sông là thành phố Fou-chow. Tàu Dordogne đến Nhật Bản, nơi đây tình trạng của các nhà ngoại giao và lãnh sự ở Yeddo [57], vừa được cải thiện chưa được vài ngày nhờ sự hiện diện quân sự của Pháp và Anh đặt dưới quyền chỉ huy của các chuẩn đô đốc Page và Jones, lại đột nhiên trở lại cảnh như trong tù. Tàu Gironde đi Bang-cock [58] để đón các sứ thần Xiêm La.

            Những công tác chuẩn bị sau cùng được tận lực thúc đẩy. Các chiến thuyền hư hại [59] đều cặp bến an toàn ở vũng tàu Shang-haĩ để sửa chữa. Từ 15 đến 21 tháng 1, thủy thủ đoàn và thiết bị lần lượt cho lên tàu để lên đường đi Saĩgon. Ngày 24 tháng 1, vị tổng chỉ huy rời Woo-sung, ngày ông rời Woo-sung ông đã quyết định từ trước. Vừa lúc chiến hạm Impératrice-Eugénie của đô đốc vượt cửa sông Yang-tze-kiang[60], thì tàu Dryade do chuẩn đô đốc Protet chỉ huy cũng vừa tiến vào cửa sông để cặp bến Shang-haĩ.

            Tàu Impératrice-Eugénie chỉ ghé Hong-kong có 4 hôm để nghỉ ngơi. Tại Hong-kong tất cả đã được chuẩn đô đốc Page sửa soạn chu đáo từ trước, còn chính ông thì đã đến Nhật được 20 ngày rồi. Các tàu Fusée và Calvados vẫn còn tiếp tục sửa chữa. Thủy quân lục chiến được chuyển nhanh chóng lên tàu Impératrice-Eugénie để tàu nhổ neo đi Nam Kỳ. Ngày 7 tháng 2, tàu ngược sông Don-na2] Tức Hàm Phong (1831–1861), Hoàng đế nhà Thanh 1850–1861 – TN

[3] Tức Nhiệt Hà – TN

[4] Tức Thiên Tân – TN

[5] Chưa tìm được tên gốc của các phiên âm. “Takou” phải chăng là “Đại Cổ”? – TN

[6] Tức Cung thân vương Dịch Hân (1833-1898) – TN

[7] Tức là nước Nga. (ghi chú của người dịch (ND))

[8] Tức Nikolai Pavlovich Ignatiev (1832–1908), Bá tước Nga – TN

[9] Nước Anh và nước Pháp liên kết đi đánh Tàu. – ND

[10] Tức Napoleon đệ tam. – ND

[11] Chưa rõ phiên âm Tche-fou. Shang-haĩ chính là Thượng Hải. – TN

[12] Tức Quảng Đông – TN

[13] Thật ra thì vào lúc đó, tình thế của Saĩgon đã dươc cải thiện, nhưng vị chỉ huy trưởng Canton buộc phải tuân lịnh của Tổng tư lịnh gởi đi từ tháng 7 năm 1860 bắt phải chuyển một đại đội bộ binh đến Saĩgon. Trong khi ấy trại quân Saĩgon vừa được bổ xung một trăm thủy quân chiến đấu do tàu Weser chở tới. Hai trăm quân bổ sung khác sẽ còn được liên tục chở đến sau. – Tác giả (TG)

[14] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Thực ra, “Général” chỉ có nghĩa là “tướng” nói chung, còn

Général d’armée” mới có nghĩa là “Đại tướng”. Jamin giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương

huẩn tướng. – TN

[15] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Collineau giữ cấp bậc “Général de brigade”, tương đương Chuẩn tướng. – TN

[16] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. Tuy nhiên cấp bậc của Montauban lúc bấy giờ là “Général de division”, tương đương “Thiếu tướng”.

[17] Tức sông Bạch Hà, nay gọi là sông Hải Hà ở Turng Quốc. – TN

[18] Mỗi dặm là 4,445 km. – ND

[19] Ðó là dấu hiệu trọng vọng lớn lao, nhưng hơi khác với cờ của tổng tư lịnh trong hải quân, cũng gần giống như vậy. - TG.

[20] Tức Ngô Tùng. – TN

[21] Ðệ nhất đế chế: là chế độ chính trị Pháp từ tháng 5 năm 1804 đến tháng 4 năm 1814, Napoleon đệ nhất làm hoàng đế. – ND

[22] Nguyên văn bản dịch là “tàu chuyên chở có trọng tải nặng”. Thực ra “vaisseau de ligne” có nghĩa là “đại chiến hạm chủ lực” - TN.

[23] Frégate de premier rang: Tàu chiến loại lớn có 3 cột buồm. – ND. Nguyên văn bản dịch là “tàu chiến đấu”. – TN

[24] Frégate de deuxième rang: Tàu chiến loại nhỏ hơn có 2 cột buồm. – ND

[25] Nguyên văn bản dịch là “Đại pháo hạm”. Thực ra “corvette” có nghĩa là “chiến hạm” – TN

[26] Nguyên bản là “aviso”. – TN

[27] Nguyên bản là “aviso de flottille”. – TN

[28] Nguyên văn bản dịch là “chiến hạm”. Thực ra “bâtiment de flottille” có nghĩa là “chiến thuyền hạng nhẹ” – TN

[29] Nguyên văn bản dịch là “pháo hạm”. Thực ra “canonnière” có nghĩa là “pháo thuyền” – TN

[30] Nguyên văn bản dịch là “thuyền đại pháo bằng sắt có thể tháo lắp được”. – TN

[31] Nguyên văn bản dịch là “tàu trọng tải chạy chân vịt mang theo mỗi tàu hai giàn đại pháo”. – TN

[32] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng”. – TN

[33] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm”. – TN

[34] Nguyên văn bản dịch là “đại úy thuyền trưởng tàu chiến đấu”. – TN

[35] Nguyên văn bản dịch là “trung úy chiến hạm”. – TN

[36] Nguyên văn bản dịch là “sĩ quan hải quân cấp trung úy”. – TN

[37] Nguyên bản ghi “chaudière”, nghĩa là “nồi hơi”. – TN

[38] Tiếc quá, tác giả chẳng tìm được cô gái Tàu nào ở Thượng Hải sao? Có thể đây là cách viết của tác giả để tự ám chỉ mình một cách kín đáo? – ND

[39] Dịch sát nghĩa từ “Capitaine”, tương đương cấp sĩ quan cấp Tá trong Hải quân Pháp. – TN

[40] Tức sông Dương Tử. – TN

[41] Tức sông Hoàng Phố. – TN

[42] Câu này cho ta đoán có thể tác giả là người ở trên Chiến hạm Impératrice-Eugénie, hoặc thuộc đạo quân thủy quân lục chiến được đưa lên tàu đi Nam Kỳ. – ND

[43] “Hoàng đế quyết định hôm nay ở hội đồng chính phủ truyền cho thống chế bộ trưởng chiến tranh ra lịnh bằng văn thư ngày tức khắc cho tướng Montauban để bàn thảo và hội ý với ông trong mục đích chiếm giữ cho nước Pháp vị trí thật quan trọng là Saĩgon”

Và kế tiếp: “Hoàng đế, ông biết không, đã sai viết thư cho tướng Montauban bảo ông này phải đặt dưới quyền của ông 1.800 quân”

(Hai đoạn trên trích từ 2 công văn của bộ trưởng hải quân gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 26 tháng 9 và 10 tháng 12 năm 1860). – TG

[44] Nguyên văn bản dịch là “Đại tướng lữ đoàn”. – TN

[45] Ghi chú của TG                 Sĩ quan                Lính      Ngựa

 Bộ binh ----------------                    39                     709         22

 Bộ binh người Phi châu                3                       29          31

 Pháo binh---------------                  15                     316        184

 Công binh---------------                    4                      77           13

 Hậu cần------------------                 24                     172           22

[46] Tướng O’Malley, trên nguyên tắc, phải rời bỏ Tien-tsin cùng với trung đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon. Nhưng việc này không được thực thi đúng như vậy, vì sau đó chuẩn tướng de Vassoigne (thủy binh lục chiến) được chỉ định bằng công hàm bộ trưởng giữ chức phó chỉ huy trong binh đoàn viễn chinh đánh chiếm Nam Kỳ. ‘’...Tôi có sai tham mưu trưởng bộ tổng tham mưu viết thư cho tướng O’Malley, ngay khi có thể thực hiện được, sẽ cùng với tiểu đoàn chiến đấu 101 đến Saĩgon xáp nhập với ông.’’ (Trích thư của tướng Cousin-Montauban gởi cho phó đô đốc Charner, ngày 14 tháng giêng 1861). – TG. Cả O’Malley và de Vassoigne đều mang cấp bậc “général de brigade”. – TN

[47] Vị chỉ huy trưởng kỵ binh của Bộ tham mưu được chỉ định giữ chức vụ này, và một đại úy cũng của Bộ tham mưu làm phụ tá cho ông. – TG

[48] Nguyên văn bản dịch là “quân đoàn”. – TN

[49] Nguyên bản là “coolie”. – TN

[50] Nguyên văn bản dịch là “đại úy hải quân”. – TN

[51] Nguyên bản là “piastre”. – TN

[52] Câu ‘’hớ” này cho biết ý đồ của người Pháp sẽ đánh chiếm hết xứ Annam, chớ không phải chỉ nhắm vào hai tỉnh Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. – ND

Trong bản dịch ghi là Bắc Kỳ, nay giữ lại như nguyên bản. – TN

[53] Người Philippine gốc Malaysia. - ND.

[54] Tức Phúc Châu phủ. – TN

[55] Tức Phúc Kiến. – TN

[56] Tức sông Mân Giang. – TN

[57] Tức Yedo, Nhật Bản. – TN

[58] Tức Bangkok. – TN

[59] Gồm các chiến hạm : Dragonne, Mitraille, Alarme, Prégent, Alom-prah. – TG

[60] Tức Dương Tử Giang. – TN

[61] Tức sông Đồng Nai. - TN

                                                                                 (Còn tiếp)

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...