Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

Dấu tích thành cổ hơn 140 tuổi

 giữa trung tâm Sài Gòn

20/03/2016 - 23:57 PM

Hai khối nhà tại góc đường Đinh Tiên Hoàng - Lê Duẩn là dấu tích còn lại của tòa thành cổ hơn 140 năm tuổi đã chứng kiến bao thăng trầm lịch sử của Sài Gòn.

Theo sách Sài Gòn xưa và nay, sau khi chiếm được thành Gia Định (thành Phụng do vua Minh Mạng xây), để tránh quân triều đình nhà Nguyễn đánh chiếm lại, ngày 8.3.1859 tướng De Genouilly cho đặt 32 ổ mìn đánh sập thành Phụng. Đồng thời, quân Pháp cũng cho tiêu hủy toàn bộ kho bên trong, kéo dài cả tuần do có nhiều lúa gạo.

Khi đã chiếm được toàn bộ Nam Kỳ, chính quyền thực dân Pháp bắt đầu tập trung xây dựng thành phố Sài Gòn. Tuy nhiên, trong các bản đồ của đề án quy hoạch năm 1867 và 1870 không có công trình nào trên khu vực thành Gia Định cũ.

dau-tich-thanh-co-hon-140-tuoi-giua-trung-tam-sai-gon-2
Cổng thành Ông Dèm lúc mới xây - trên đường Lê Duẩn hiện nay. Trước cổng thành vẫn còn là đồng cỏ (ảnh chụp từ góc ngã tư Lê Duẩn - Tôn Đức Thắng hiện nay). Ảnh tư liệu 


Mãi đến bản đồ của đề án quy hoạch năm 1873 mới xuất hiện một công trình xây dựng ngay trên nền của thành Gia Định, được xây trong 3 năm (1870-1873) bằng nhiều vật liệu sắt và gạch phá dỡ từ thành Gia Định cũ, theo bản thiết kế của kiến trúc sư người Pháp Varaigne và A. Dupommier. Khi xây xong, thành được đặt tên là Martin des Pallières theo tên của vị tướng Pháp Charles Gabriel Félicité Martin des Pallières (1823-1876).

Thành Martin des Pallières có dạng hình chữ nhật với cạnh là 4 con đường (Lê Duẩn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Bỉnh Khiêm) và có diện tích chỉ bằng gần một nửa thành Gia Định. Thành gồm ba khối kiến trúc chính: hai khối nhà dài một trệt, một lầu, hai bên cổng; khối còn lại một trệt, hai lầu xây cao hẳn trên nền đất. Kiểu thành và mẫu nhà với hệ thống lam quả trám phía trước, chống nóng sau này được áp dụng vào một số kiến trúc ở Sài Gòn như Bệnh viện Quân đội Pháp (nay là Bệnh viện Nhi đồng 2).

Tuy nhiên, phía ngoài tòa thành mới này vẫn còn hệ thống lũy đất quanh thành nên trong các bản đồ trước năm 1900 đa số còn vẽ nguyên hình dáng thành Gia Định xưa (từ năm 1900, hệ thống lũy đất này mới bị san bằng nên các bản đồ sau đó không còn thấy hình dáng thành Gia Định xưa nữa.
dau-tich-thanh-co-hon-140-tuoi-giua-trung-tam-sai-gon-3
Hai khối nhà thành Ông Dèm vẫn tồn tại sau 143 năm. Ảnh: Trung Sơn



Theo các nhà nghiên cứu, thành mới có thể là căn cứ đầu tiên của Trung đoàn dã chiến Nam Kỳ (Régiment de marche de Cochinchine) thành lập năm 1869. Đến năm 1890, Trung đoàn được phát triển thành các trung đoàn số 8, 10 và 11. Riêng trung đoàn số 11 đóng tại thành Martin des Pallières.

Năm 1900, trung đoàn 11 đổi tên là Trung đoàn bộ binh thuộc địa thứ 11 (11ème régiment d'infanterie coloniale - 11ème RIC) - binh đoàn chủ lực của Pháp ở Nam Kỳ. Người Sài Gòn thời đó gọi nơi này là trại Ông Dèm hay thành Ông Dèm (phiên âm từ chữ onzième có nghĩa là thứ mười một).

Theo sách Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945-1975), ngày 9.3.1945, sau cuộc đảo chính, người Nhật bắt tất cả người Pháp tại Sài Gòn giam giữ tại đây. Khi quân Anh vào Sài Gòn làm nhiệm vụ giải giới quân Nhật, tướng Douglas Gracey ra lệnh phóng thích và trang bị cho người Pháp tại Nam Bộ, đặc biệt là với các binh lính Pháp bị giam tại trại Ông Dèm. Chính lực lượng của Trung đoàn bộ binh thuộc địa thứ 11 (11ème RIC) đã cùng quân Anh nổ súng tái chiếm Sài Gòn ngày 23/9/1945.

Năm 1954, quân đội Pháp rút khỏi Việt Nam, cũng như tất cả cơ sở khác, thành Ông Dèm được trao lại cho chính quyền Quốc gia Việt Nam. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam lúc đó là Ngô Đình Diệm đã điều một số tiểu đoàn trung thành với chính phủ vào nội đô Sài Gòn, đóng tại thành Ông Dèm. Nhờ đó, khi quân Bình Xuyên tấn công thành, quân chính phủ đã nhanh chóng đánh bại, đẩy lùi lực lượng Bình Xuyên ra khỏi Sài Gòn.

dau-tich-thanh-co-hon-140-tuoi-giua-trung-tam-sai-gon-2
Cổng thành Ông Dèm nhìn thẳng từ ngã tư Lê Duẩn - Tôn Đức Thắng hiện nay, phía sau là khu nhà lính. Ảnh tư liệu



Sau khi nắm quyền Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm cho đổi tên thành thành Cộng Hòa và khu vực này là nơi đồn trú của Tiểu đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống, sau đó được nâng lên thành Liên đoàn, rồi Lữ đoàn Phòng vệ Phủ Tổng thống. Tuy quân số bằng một trung đoàn bộ binh, khả năng chiến đấu của Lữ đoàn Phòng vệ lúc đó được đánh giá tương đương với một sư đoàn nhờ binh sĩ thiện chiến và trang bị vũ khí tối tân (pháo binh, thiết giáp và súng phòng không...).

Bằng chứng là trong cuộc đảo chính ngày 11.11.1960, dù quân đảo chính đã kiểm soát được nhiều khu vực quan trọng như Tổng tham mưu, Căn cứ không quân Tân Sơn Nhứt, Nha Tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia và Nha Cảnh sát đô thành… nhưng nhờ sức kháng cự quyết liệt của lực lượng Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống thành Cộng Hòa và Phủ Tổng thống vẫn không bị thất thủ.

Đến lần hai vào ngày 1.11.1963, ngay từ đầu quân đảo chính đã bắt giam Trung tá Nguyễn Ngọc Khôi - Chỉ huy trưởng Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống. Nhờ đó đã làm giảm khả năng tổ chức chống đảo chính của lực lượng này. Tuy nhiên, quân đảo chính vẫn không thể chiếm được thành Cộng Hòa. Mãi đến rạng sáng ngày 2.11, lực lượng phòng vệ mới buông súng theo lệnh của tổng thống Diệm khi ông bị bắt.

dau-tich-thanh-co-hon-140-tuoi-giua-trung-tam-sai-gon-3
Hai tường thành Ông Dèm trên đường Lê Duẩn bị đường Đinh Tiên Hoàng chia đôi. Ảnh: Trung Sơn

Sau đảo chính, Liên binh Phòng vệ Phủ Tổng thống bị giải thể. Ngày 14.12.1963, Chính quyền mới (Việt Nam Cộng Hòa) ra quyết định giao thành Cộng Hòa cho Bộ Giáo dục để thiết lập một khu Đại học (gồm Đại học Văn khoa, Dược khoa về sau có thêm Cao đẳng Nông Lâm Súc và Đài Truyền hình). Tòa nhà lính ở phía sau cổng thành bị phá, một đại lộ mới cũng được xây dựng xuyên qua chia thành Cộng Hòa làm hai, nối thông đường Đinh Tiên Hoàng với đường Cường Để (nay là Tôn Đức Thắng).

Ngày nay, sau 143 năm, dấu tích của thành Ông Dèm vẫn còn ở khu vực trung tâm quận 1 là 2 khối nhà ở hai bên đường Đinh Tiên Hoàng, ngay giao lộ Lê Duẩn. Hiện khối nhà thuộc ĐH Dược được cải tạo làm căn tin còn khối nhà thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn là trung tâm ngoại ngữ của trường.

Nhiều người cho rằng hai khối nhà có tuổi đời hơn trăm tuổi, đã chứng kiến bao thăng trầm lịch sử cần được đưa vào danh sách bảo tồn, gìn giữ. Tuy nhiên, trao đổi với VnExpress, ông Trương Kim Quân, Giám đốc Trung tâm bảo tồn và Phát huy giá trị di tích (Sở Văn hóa và Thể thao TP HCM) cho biết, hiện 2 ngôi nhà trên không thuộc diện bảo tồn cấp quốc gia cũng như cấp thành phố.


Thành Ông Dèm qua 143 năm
Bản đồ Sài Gòn năm 1867 cho thấy thành Gia Định vẫn còn xuất hiện với đầy đủ đường nét chính tường thành cũng như hình dáng các pháo đài bốn góc thành và không hề có một công trình nào được xây dựng ở khu vực này.
Tranh vẽ 3D của của Đại úy hải quân Pháp Favre năm 1881 cho thấy những tòa nhà mới đã được xây dựng bên trong khuôn viên thành Gia Định, hình thành một ngôi thành khác (góc phải phía trên).

Cổng thành Ông Dèm lúc mới xây dựng, trước cổng thành vẫn là đồng cỏ mênh mông. Ảnh chụp từ phía đường Lê Duẩn hiện nay.

Cổng thành Ông Dèm chụp trực diện từ hướng đường Cường Để (nay là Tôn Đức Thắng).

Hai khối nhà là cổng thành Ông Dèm hiện nay trên đường Lê Duẩn, ảnh chụp từ hướng đường Tôn Đức Thắng. Ảnh: Trung Sơn
Hai khối nhà - vốn là cổng thành Ông Dèm sau 143 năm vẫn tồn tại trên đường Lê Duẩn. Ảnh: Trung Sơn
                                                                                       Trung Sơn 
                                                                                   Theo Vnexpress

Thứ Sáu, 15 tháng 4, 2016


NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                                 881. Nhà hàng Cheong Nam giao lô Hai Bà Trưng-Nguyễn Siêu ngày xưa và giờ nay.



                                 882. Đường Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm) xưa và nay.



                                 883. Giao lộ Tự Do/Đồng Khởi với Lê Thánh Tôn xưa và nay.


                                 884. Rạp Victory Lê Ngọc đường Nguyễn Cư Trinh xưa và nay.


                                 885. Đường Võ Tánh (Hoàng văn Thụ) nhìn từ đường Cách Mạng 1/11 (Nguyễn văn Trỗi) xưa và nay.


                                 886. Grand Hôtel de la Rotonde đầu thế kỷ 20 và vị trí hiện nay.


                                 887. Cây xăng góc Võ Di Nguy nối dài (Nguyễn Kiệm) và Chi Lăng (Phan Đăng Lưu) xưa và nay.


                                 888. giao lộ Đề Thám-Bùi Viện năm 1956 và hiện nay.


                                 889. Rạp Hưng Đạo xưa và nay.


                                 890. Một người bán bông tại giao lộ Duy Tân/Phạm Ngọc Thạch-Nguyễn Văn Chiêm ngày xưa và vị trí hiện nay.


Nguồn Binh Anson, Trung Ngo, Xuan Nhu Tran, Tim Doling

Thứ Hai, 11 tháng 4, 2016

Những loạt phim về giờ phút cuối cùng của VNCH của Jacques Teyssier


Bác sĩ Jacques Teyssier (BS Nhi khoa 1969 - 1971 và 1973-1975) tại Bệnh viện Grall Sài Gòn vào năm 1970 đã thực hiện các bộ phim về những giờ phút cuối của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Mời các bạn xem qua để nhớ lại những khoảng khắc đó. 


Bác sĩ Jacques Teyssier cùng các y tá bệnh viện Grall


Bác sĩ Jacques Teyssier với những người "bạn" ngày 30/4/1975




Ngôi nhà của Bác sĩ Jacques Teyssier





Và chuyến trở lại của Bác sĩ Jacques Teyssier
 vào năm 2016.
(vì lý do trữ lượng file quá lớn nên phải cắt ra làm 3 phần xin các bạn thông cãm)




Thứ Năm, 7 tháng 4, 2016

Bàn Cờ
những con hẻm nhỏ

Ði đâu xa tôi vẫn nhớ những con hẻm nhỏ của Sài-gòn. Tôi đã may mắn được đi hết năm châu bốn biển, nhưng chưa thấy quốc gia nào có những con hẻm nhỏ như ở Sài Gòn.

Ở Hồng Kông chỉ có những tòa nhà chọc trời, những đường xe điện ngầm "xuyên bang", với hàng quán shopping tấp nập như một thành phố bên dưới một thành phố, không cách chi tìm được một con hẻm nhỏ.
Ở Thái Lan có những đêm tôi tò mò thả bộ suốt đêm để tìm hiểu dân tình và... đường xá. Những con hẻm ở Băng-Cốc so với Sài Gòn là những con hẻm lớn. Ở Cam-pu-chia có thể là có những con hẻm gần giống với Sài Gòn, nhưng vẫn khó tìm ra được những con hẻm nhỏ. Nói "có thể" vì tôi chưa sống qua một thời gian lâu dài ở nước này, nơi mà ngay cả nhiều người Cam-bốt kiều (?) cũng không dám về, do tình hình bất an với me xanh me đỏ - Khờ Me xanh, Khờ Me đỏ - cộng thêm sự tranh chấp dữ dội giữa chánh quyền Hunsen và Shihanouk. Tôi cũng tò mò tìm vào những xóm nhỏ, nhưng tựu trung chúng vẫn là những con hẻm lớn hơn so với những con hẻm Sài-gòn, dù là rất dơ bẩn, nước sình bùn chảy dài trong khi dân cư họp chợ ngồi chồm hổm lổng nhổng trên mặt nước. Ở Băng Cốc cũng có những khu chợ sình ngập đến gần mắt cá, mang dép bước vào là hai bàn chân ngập sình đen ngòm. Nhưng vẫn không tìm được những con hẻm nhỏ.
Khi trước nhà tôi ở quận Ba, trong hẻm Niệm Phật Ðường Huệ Quang ngó ra đường Phan Ðình Phùng, sau này đổi tên thành đường Nguyễn Ðình Chiểu. Hẻm này thông ra một cái chợ gần trường tiểu học Bàn Cờ. Cái chợ này sáng sớm đã ồn ào, với những hàng xôi, chè, bánh mì, chè, cháo, bánh xèo, bánh cuốn, bánh mì hấp, bánh bèo v.v... Mỗi sáng tôi thường ra đây làm gói xôi hoặc khúc bánh mì. Gọi là khúc chứ không phải ổ, vì ổ bánh mì rất dài và ốm, được cắt thành từng khúc bán cho người ăn sáng. Hôm nào có tiền thì ăn bánh mì ba-tê, thiếu tiền thì chỉ mua khúc bánh mì chan nước cá cũng xong bữa điểm tâm. Gần chợ là trường tiểu học Bàn Cờ. Từ đây đi bọc ra sau là khu Cư xá Ðô Thành dẫn ra đường Phan thanh Giản, gần đó là bệnh viện Bình Dân, bên kia đường xích về phía Lê văn Duyệt là trường Văn Học của nhà thơ Nguyên Sa. Hầu hết những con hẻm này là những đường hẻm cỡ trung bình, đủ cho xe ba gác đi lọt . Nhưng nối liền những con hẻm trong khu Niệm Phật Ðường Huệ Quang là những đường hẻm rất nhỏ, có khi chỉ một xe Honda đi vừa, hoặc chỉ vừa đủ cho hai xe đạp đi ngược chiều nhau
Lại có những đường hẻm rất nhỏ chỉ đủ cho một xe đạp hay một người đi . Từ hẻm Niệm Phật Ðường Huệ Quang, có một hẻm nằm ngang, thông ra đến ngoài đường Phan Ðình Phùng gần trường "Ô-Ro", cái tên chúng tôi vẫn dùng để gọi một trường tiểu học khá nổi tiếng gần ngã tư Phan Ðình Phùng - Cao Thắng. Hẻm này khá nhỏ và lắt léo, cong cong quẹo quẹo . Ðầu hẻm chỗ đâm ra đường Phan Ðình Phùng có một nhà thuốc Tây, nơi tôi vẫn thường đến mua thuốc trụ sinh để trị bệnh mũi kinh niên của mình, mua riết đến nỗi bà dược sĩ quen nhẵn mặt. Khúc đầu hẻm bề ngang chỉ đủ cho 2 xe Honda đi ngược chiều nhau. Nhìn xéo qua bên kia đường là nhà sách Thanh Bình. Ði xích xuống về phía đường Cao Thắng là nhà bảo sanh Hồng Ðức. Cạnh nhà bảo sanh lại có một con hẻm nhỏ, bề ngang chỉ vừa đủ cho 2 chiếc Honda đi song song, hoặc đi ngược chiều một cách chật vật. Ở đầu hẻm, một bên là nhà bảo sanh Hồng Ðức, một bên là Nhà vẽ Văn Phong, cũng là nhà của Quy, một thằng bạn từ tiểu học.
Con hẻm này đi suốt vào đến tận cùng là nhà của Mai, một thằng bạn tiểu học khác. Thời tiểu học, tôi vẫn thường đi suốt con hẻm này vào nhà Mai, trước nhà có một cái sân xi măng vừa đủ chơi, phía trên là một cái cây lớn có tàn che mát những hôm trời nắng.
Từ con hẻm này, lại có con hẻm nhỏ đâm ngang, thông ra một con đường không tên. Trên giấy tờ đường này cũng là một con hẻm, nhưng lại khá lớn, đủ rộng cho xe chạy hai chiều, kể cả xe hơi và xe ba gác, nên chúng tôi vẫn kêu nó là con đường. Ðầu đường mé Phan đình Phùng có tiệm giò chả Thanh Hương. Giữa đường là nhà mướn của nhà văn Nguyễn Ðình Thiều, đầu đường mé Trần Quí Cáp là một đồn lính Ðại Hàn. Con đường này nối liền hai đường Phan Ðình Phùng và Trần Quí Cáp. Mé đầu đường gần đồn lính Ðại Hàn lại có một con hẻm nằm ngang, đầu hẻm trông như cái hầm, trong hầm có xe bán thức ăn. Hẻm này thông ra một con đường khác cũng nối liền Phan Ðình Phùng và Trần Quí Cáp. Ðầu đường chỗ Trần Quí Cáp là tiệm cá hấp Tám Lọ, đối diện là trường tiểu học Minh Chánh. Cái hẻm ngang này khá "lớn", bề ngang đủ cho ba xe Honda đi song song, hoặc hai xe đi ngược chiều thoải mái, nhưng khúc giữa tóp lại, chỉ đủ cho một xe đi lọt. Tôi và Mai thường hay đi xuyên con hẻm này, vì gần chỗ Tám Lọ là một tiệm đá banh bàn, bề ngang tiệm chỉ vừa đủ đặt một bàn banh và đủ chỗ cho một thằng học trò ốm yếu như tụi tôi đi lách qua, lưng ép sát vào tường. Chiều dọc tiệm banh đủ đặt bốn cái bàn. Ở cuối tiệm lúc nào cũng có bà chủ người Trung mặc bộ đồ bà ba ngồi đổi tiền giấy ra tiền cắc cho chúng tôi đá banh. Tôi và Mai đã từng say mê đóng đô tại đây trong suốt những năm tiểu học. Về sau, khi Mai sắp qua đời, tôi và nó còn đến đây đá thêm một trận nữa . Năm đó chúng tôi học lớp 10. Sau cơn bạo bệnh, Mai bỗng nhiên tỉnh dậy mạnh khỏe như thường, đến tìm tôi và chúng tôi lại rủ nhau đến đây đá banh, có lẽ để hồi tưởng lại những ngày tiểu học, vì khi đó chúng tôi tự coi mình như đã "lớn", không thèm chơi banh bàn nữa, mà chỉ thích ngồi quán cà phê nghe nhạc tiền chiến, nhạc phản chiến hoặc nhạc kích động của Mỹ, nhạc nào cũng mở lớn đến điếc con ráy, nói chuyện phải hét vào tai nhau mới nghe rõ. Chỉ sau hai tuần đi thăm hết bạn bè, Mai bỗng nhiên bị cảm trở lại rồi qua đời . Năm lớp mười tôi đi chôn nó. Theo người ta nói, có lẽ nó "hồi dương", tỉnh dậy đi thăm bạn bè lần chót. Tôi và Hoàng, thằng bạn chung xóm thi vô Ðệ Thất ba năm không đậu, cuối cùng phải đi học trường tư, cùng với chị Lèo chung xóm đi đưa đám Mai . Gọi Lèo là chị vì cô ta hơn tôi một tuổi, hình như cũng hơn một lớp, học lớp 11 hay gì đó. Còn thằng Hoàng, dù hơn tôi hai tuổi mà vẫn xưng hô mày tao, vì nó với tôi chơi chung như bạn, hai đứa cùng thi vào Ðệ Thất chung một năm với em gái nó, vì nó thi rớt hai năm nên em nó bắt kịp. Cuối cùng nó xui xẻo vẫn rớt, còn tôi thì đậu gần cuối sổ, nhưng cũng may mắn vào được trường công. Lèo hồi đó vừa sang vừa đẹp, lại hơn một tuổi, nên tôi không dám tán. Sau ra nước ngoài, nghe tin thằng cháu kém tôi hơn mười tuổi đang cặp với.... "con Lèo", thật là hậu sinh khả ố!
Tuy đã đi qua nhiều hẻm nhỏ, nhưng có lẽ chưa con hẻm nào nhỏ cho bằng con hẻm cạnh chùa Tam Tông Miếu đường Cao Thắng. Ðây là một con hẻm dài, khá dài so với những con hẻm khác. Hẻm này ăn thông từ đường Cao Thắng ra đến khu Cư xá Ðô Thành, khúc đi ra bệnh viện Bình Dân. Con hẻm này nhỏ đến nỗi chỉ có một xe đi lọt. Xe đạp thì đỡ hơn, còn Honda thì đi khá chật vật. Ðặc biệt là có một khúc cua, xe nào cũng phải lách tới lách lui mới qua được . Trước khi vào, người đi xe phải nhìn suốt con hẻm xem có xe đi ngược chiều không, nếu có thì phải chờ xe kia ra khỏi, rồi mới vào hẻm . Nếu không cả hai xe sẽ kẹt trong hẻm, một xe phải lùi lại cho xe kia tiến lên. Tôi rất thích đi xe đạp, và còn thích đi bộ hơn nữa trong con hẻm này, không hiểu tại sao, có lẽ tính tôi hay tìm những ngõ ngách lắt léo của cuộc đời. Vì vậy nên đã có lần tôi đứng chờ em suốt ba ngày dưới mưa cạnh con hẻm này . Em không thèm đến, nên tôi bỏ cuộc. Về sau em trở lại theo, tôi giận không thèm, đi tìm em khác! Lúc trở về thăm xóm cũ thì cả hai đã tròm trèm bốn mươi, em vẫn còn nói với tôi, em luôn luôn là người đi sau một bước. A! Phải chi em chịu gặp tôi dưới mưa!...
Ðúng vậy, có lẽ tôi là người đi sớm, quá sớm, nên phải đứng dầm mưa tầm tã suốt ba ngày ướt nhẹp! Nhưng tôi biết, tôi đứng dưới mưa vì thích thế, chứ chưa chắc là tôi cần em đến!??

         Nói về hẻm thì kể mãi tới chiều cũng không hết. Có những con hẻm trong chợ Bàn Cờ gần cuối đường Phan Ðình Phùng thông ra hông chợ ở đường Nguyễn Thiện Thuật. Lại còn khu Vườn Bà Lớn trước Tết Mậu Thân, trong Tết bị chiến tranh cháy rụi, về sau xây lại thành khu chung cư Nguyễn thiện Thuật, tiếp giáp với đường Phan thanh Giản, đầu đường có trạm xăng và Viện Bài Lao, gần đó là nhà của nữ tài tử cải lương Lệ Thủy.

       Trước Tết Mậu Thân năm 68, tôi có lần vào Vườn Bà Lớn mướn xe đạp đi chơi, bị mưa phải dắt xe đi bộ nước ngập đến đầu gối, vừa đi vừa khóc vì lạc trong ma trận đầy dẫy những con hẻm nhỏ ngoắt ngoéo không tìm được lối ra. Sau phải nhờ con nhỏ thua mình đến mấy tuổi dẫn đường mới biết ngõ ra . Cũng lạ, nghĩ lại sao hồi đó người cho mướn xe không sợ, mà người mướn là tôi cứ sợ không tìm được nhà người cho mướn để trả xe!

       Lại còn những con hẻm trong khu trường tiểu học Phan Ðình Phùng, gần chùa Kỳ Viên Tự ở góc đường Phan Ðình Phùng và Bàn cờ. Sát bên là trường tiểu học tư thục Bình Dân Học Hội và chùa Phước Hòa . Trong khu này có những con hẻm thông ra Hồng Thập Tự, có những "hẻm hầm", đi như đi trong hầm bên dưới núi, thông ra nhà thờ Ðức Bà hay gì đó (không phải là Nhà thờ Ðức Bà hay Vương Cung Thánh Ðường gần Bưu Ðiện). Những đường hẻm này dẫn ra đến công viên đường Hồng Thập Tự và công viên "Ðại Hàn" đối diện trường Petrus Ký, gần bùng binh góc đường Lý Thái Tổ và Hồng thập Tự. Nằm gần đó trên con đường nhỏ ăn thông từ Nguyễn thiện Thuật ra Lý thái Tổ là tiệm cà phê Nam Dưỡng, đối diện tiệm cà phê trong một con hẻm nhỏ là nhà của nghệ sĩ Hùng Cường. Có lần đi ngang cà phê Nam Dưỡng, tôi được thấy Hùng Cường tướng thật đẹp trai từ trong nhà đi ra, cả khu phố nhìn theo với ánh mắt trìu mến và ngưỡng mộ.

      Những con hẻm này cũng là khu tôi từng mài đũng quần những năm tiểu học, buổi sáng học trường Phan Ðình Phùng, buổi trưa học thêm trường Cô Hạnh. Nhiều buổi tối rủ nhau ra công viên bắt dế cơm, dế trống, gặp mấy đứa lạ đến làm quen rủ chơi năm mười tôi tự xưng tên Vũ, tới khi nó gọi tên cũng không nhớ là nó gọi mình. Không hiểu sao nó lại nhớ tên, trong khi chính mình cũng không nhớ. Nhưng mãi đến giờ mấy chục năm sau tôi vẫn còn dùng tên này làm bút hiệu .
      Những con hẻm nhỏ thân thương của Sài Gòn, tôi nghĩ một ngày nào đó có lẽ cũng không còn, theo đà tiến bộ của hệ thống giao thông và phát triển đô thị . Nhưng tôi mong rằng chúng sẽ không thay đổi. Thật ra, đối với tôi, chúng không bao giờ thay đổi . Ở Mỹ hơn hai mươi năm, nhiều khi tôi vẫn cảm thấy mình như người khách lạ. Nhưng sau hai mươi năm trở về khu xóm cũ, những người quen vẫn tay bắt mặt mừng, những con hẻm thân thương vẫn hân hoan chào đón. Tôi chợt hiểu ra! Ðường xá dù thay tên đổi họ, những con hẻm và lối đi quen thuộc vẫn mãi mãi thuộc về tôi. Thành phố vẫn thuộc về Lệ Thủy, Hùng Cường. Nó mãi mãi vẫn là nắng Sài Gòn anh đi chợt mát của Nguyên Sa, vẫn là khu phố quen thuộc với các vũ trường ăn chơi nhảy nhót của Nguyễn Ðình Thiều. Vẫn là thành phố vang vọng tiếng hát cải lương của Thanh Nga, Bạch Tuyết và gánh Dạ Lý Hương. Những con hẻm nhỏ vẫn mãi mãi là của Mai, của Lèo, của Hoàng và của tôi. Nhà cửa dù xây lên, đập xuống, khu phố dù kẻ đi người ở, vẫn mang một linh hồn thủy chung không thay đổi. Cô gái Sài Gòn vẫn là người chinh phụ đi sau một bước, suốt hơn hai mươi năm vẫn ngày ngày tựa cửa đợi chồng . Những người mới dù vào Sài gòn hơn hai mươi năm vẫn là khách lạ, sống cô đơn trong những khu phố đầy người tôi quen, những khu xóm quen thuộc mà tôi rành từng cành cây, khúc quẹo. Những con hẻm nhỏ ôm ấp nhiều kỷ niệm vẫn vui mừng chào đón tôi về. Những con hẻm thân thương đã cho tôi sự giao thông cực kỳ tiện lợi và ấm cúng, những đường đi lắt léo trong những ngõ ngách tế nhị của cuộc đời. Chúng vẫn mãi mãi thuộc về tôi ! 

                                                                                       Khuyết Danh


Thứ Tư, 6 tháng 4, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


                                 871. Đường Trương Minh Ký (Lê Văn Sỹ) xưa và nay.


                                872. Một đoạn đường Tự Do năm 1969 và nay.



                                873. Góc Nguyễn Huệ và Lê Lợi ngày xưa và bây giờ.



                                 874. Chợ Bà Chiểu nhìn từ đưởng Chi Lăng (Phan Đăng Lưu) xưa và nay.


                               875. Đường Hàm Nghi và ngã 4 Pasteur xưa và nay.




                                 876. Góc Pasteur-Hiền Vương ngày xưa và bây giờ.


                                 877. Góc Lê Lợi-Công Lý ngày xưa và bây giờ.


                                 878. Ngã 3 Trần Hưng Đạo & Tản Đà ngày xưa và bây giờ.

                             
                                 879. Ngã 3 Tự Do ( ĐK ) & Nguyễn Thiếp ngày xưa và bây giờ.



                                 880. Ngã 4 Nguyễn Văn Thinh & Tự Do ngày xưa và bây giờ.


Nguồn Trung Ngo, Xuan Nhu Tran, Tim Doling

Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

CƯ XÁ HERAUD - TÂN ĐỊNH
Cuộc thảm sát tháng Chín năm 1945 tại Sài Gòn



Ngày nay khi nhắc lại khu cư xá và sự kiện này thì chắc chắn một điều là không còn ai biết đến. Một phần là nó đã xảy ra đã 71 năm rồi và một phần là những nhân chứng hay người chứng kiến sự kiện này không còn ai trên cõi đời này cả.


Vị trí cité Heraud trong bản đồ thời thuộc địa

Vết tích Cité Heraud ngày nay không còn nữa. Số phận của nó hẫm hiu không như những cité còn là như Richaud hay Laregnère và không có một hình ảnh nào lưu lại. Vị trí của nó theo tài liệu về vụ thãm sát thì nó nằm cuối đường Heraud (Trần Nhật Duật sau này) gần  với với kênh Arroyo de l' Avalanche (Nhiêu Lộc).


Về sau trên nền cư xá Heraud là cư xá Kiến Ốc Cục Tân Định

Sự việc như thế nào dẫn đến vụ thãm sát ngày  24, 25 và 26 tháng 9 năm 1945? Chúng ta sẽ xem bài viết dưới đây do Jacqueline Denier, một nhân chứng kể lại:


Vụ thảm sát tháng Chín năm 1945 tại Sài Gòn

Những người Pháp chính quốc ít ai biết những câu chuyện của các vụ thảm sát tháng Chín năm 1945 tại Sài Gòn. Hiệp hội Nationale des Anciens et Amis de l'Indochine (ANAI)  đã có thể thu thập lời khai từ những nhân chứng và những người đã trải qua những sự kiện này.
Tại sao tồn tại ở nghĩa trang Nogent-sur-Marne một đài tưởng niệm dành cho các nạn nhân của ngày 24-25-26 tháng 9 năm 1945 "đã chết cho Pháp" ở Sài Gòn?

Tượng đài này được xây dựng vào năm 1950 bởi Hiệp hội các gia đình nạn nhân vụ thảm sát tháng Chín năm 1945 tại Sài Gòn. Nó là bản sao chính xác chỗ để hài cốt được xây dựng cùng năm tại nghĩa trang ở Sài Gòn của Hiệp hội. Trong chỗ để hài cốt đã được cải táng là hài cốt của 37 nạn nhân được tìm thấy trong hầm hoặc trên rạch nước, không xác định được. Hiệp hội không muốn có những cái chết bị lãng quên trong những ngôi mộ nơi họ đã bị chôn vùi trong tháng Chín năm 1945. Vì thế tượng đài của Nogent không phải là một tượng đài mang tính biểu tượng.



Tượng đài tưởng niệm nạn nhân vụ thãm sát tháng 8 năm 1945 tại Sài Gòn


Bạn có thể còn nhớ bối cảnh các sự kiện xảy ra trong tháng 9 năm 1945?

Sự rối ren trong suốt thời gian này ở Sài Gòn. Người Nhật bại trận đang duy trì vị trí tại chổ của họ và duy trì việc cầm tù ở Sài Gòn những quân nhân của vinh đoàn thứ mười một Régiment d'Infanterie Coloniale cũng như các đại diện cấp cao của chính quyền Pháp. Theo các điều khoản của hiệp ước đình chiến, họ có trách nhiệm giữ gìn trật tự. Họ sẽ tiếp tục nhiệm vụ này ngay cả sau khi đến, vào ngày 12 tháng 9, Ủy ban phụ trách hiệp ước đình chiến Anh giải giáp quân Nhật ở miền nam Đông Dương. Đúng là các lực lượng Pháp-Anh của 750 người không đủ để thực thi nhiệm vụ chính của nó cộng với việc giữ gìn trật tự. Ủy viên mới, Đại tá Cédile, lấy lại quyền kiểm soát tình hình và phục hồi các nhân sự cũ đã có từ cuối tháng Tám nhưng ông vẫn chưa có nhân sự thay thế cũng như đội quân. Tướng Leclerc sẽ đến vào ngày 5 tháng 10 với các phương tiện cần thiết.
Đây là thời điểm được lựa chọn bởi Hồ Chí Minh để ghi một lợi thế quyết định. Vào ngày 02 tháng 9, ngày ký kết đầu hàng của quân Nhật Bản, ông đơn phương tuyên bố sự  độc lập của nước Cộng hòa Dân chủ Việt Nam.

Những tình huống phức tạp  nào đưa đến những sự kiện bi thảm của ngày 24, 25 và 26 tháng 9?

Ngày 2 tháng Chín, một cuộc biểu tình lớn đã được tổ chức tại Sài Gòn để ăn mừng sự độc lập và chứng minh sự thống nhất cuối cùng của tất cả các phong trào dân tộc dưới ngọn cờ của Việt Minh. Ẩn náu trong nhà của họ, người Pháp nghe những tiếng la hét những khẩu hiệu chống Pháp và cổ vũ độc lập. Đột nhiên, có tiếng súng từ quảng trường nhà thờ Đức Bà. Đám đông người biểu tình, cho rằng họ bị tấn công bởi người Pháp, liền xâm chiếm nhà xứ. Một linh mục người Pháp, Đức cha Cha Tricoire, là nạn nhân đầu tiên, bị sát hại dã man. Sau đó, cả buổi tối của ngôi nhà của người Pháp bị tấn công, cướp phá, người Pháp bắt, lạm dụng tình dục. công trình công cộng, phát thanh bị chiếm đóng với sự đồng lõa của người Nhật.
Đây là sự khởi đầu của một giai đoạn bất ổn ngày càng tăng ở Sài Gòn đối với người Pháp mà mọi khả năng phòng thủ của họ đều không có, tất cả vũ khí của họ đã bị tịch thu bởi Nhật Bản sau ngày 09 tháng 3, 1945. Những bang đảng không kiểm soát được đổ về Sài Gòn: họ từ các tù nhân của trại cải tạo Phú Quốc được phát hành bởi Nhật thả ra, những người đã được đặc biệt chú ý đối với bạo lực của họ trong các cuộc biểu tình vào ngày 2 tháng 9.
Với sự nguy hiểm ngày càng gia tăng, lực lượng chức trách Pháp và Anh cuối cùng đã quyết định tái vũ trang cho ninh đoàn thứ mười môt ngày 22 tháng 9. Vào đêm 22-23, tòa nhà công cộng được lực lượng Đồng Minh kiểm soát mà không có đổ máu. Nhưng kích động gây ra bởi sự xuất hiện của lính Pháp làm cho viên tướng người Anh lo lắng, ông tin rằng tốt để cho họ quay trở lại doanh trại của mình.
Tuy nhiên, sự bình yên rõ ràng ngự trị vào sáng ngày 24 tháng 9. Chúng ta đọc thấy trong các đường phố các phát ngôn đại tá Cédile nói rằng "các sở cảnh sát và an ninh đã hoạt động trở lại, đòi hỏi người dân phải giữ bình tĩnh, trở lại công việc thường lệ của mình."
Trong thực tế, ở trung tâm thành phố, các ngả đường được lực lượng quân sự bảo vệ, đặc biệt là bởi người Gurkhas (lính Ấn Độ trong quân đội Anh) có dáng vẻ bề ngoài là hết sức răn đe. Nhưng dáng vẻ không đánh lừa được. Việt Minh tức giận vì đã bị đuổi ra khỏi trung tâm Sài Gòn, tái hợp ở vùng ngoại ô lân cận.
Ngày 24 tháng 9, là một săn lùng thực sự đối với người da trắng, người Âu Á, người Pháp của Ấn Độ bắt đầu. Ngày hôm đó, tất cả mọi người làm việc ở ngoại vi hoặc bên ngoài vành đai của thành phố đều bị bắt, xử tử tại chỗ hoặc giam giữ ở các làng lân cận. Chúng tôi không bao giờ gặp lại họ nữa. Trong số những nạn nhân, những người dân Khánh Hội đổ xô đến các kho hàng bị đốt cháy, những người trong Chợ Lớn, trong đó có một bác sĩ là cha của tôi được một bệnh nhân người Trung Quốc gọi đến chửa trị, và ông đã bị bắt cóc và bị sát hại.
Trong thành phố, những người Âu Á, người Việt Nam làm việc cho Pháp hay thân Pháp đều bị bắt và đem đi khỏi nhà của họ.
Vào đêm ngày 24- 25 Tháng 9, các tay súng xâm nhập, với sự đồng lõa của người Nhật, ở vùng Tân Định gần rạch Avalanche và giáp khu đất hoang, một nơi cư trú của các gia đình của các quan chức Pháp nhỏ, Âu Á gọi là cư xá Heraud. Hơn 150 người Pháp bị tàn sát bởi một đám cuồng tín vũ trang với giáo, dao găm, súng xuống xông vào lục soát, cướp bóc và giết chóc. Phụ nữ, trẻ em và người già không tha. Những người sống sót kể lại câu chuyện cho thấy mức độ khủng khiếp mà các nạn nhân bất hạnh gánh chịu và các hành động cực đoan hận thù chủng tộc. Những người Âu Á được đặc biệt nhắm tới. Chỉ có một vài người Pháp thóat đi bằng ghe đã được cứu sự tiếp viện bởi người Gurkhas và các binh lính  của trung đoàn bộ binh thuộc địa số 11.
Vào ngày 26 tháng Chín, các cuộc tấn công vẫn xảy ra nhưng số lượng ít hơn: các sự kiện của hai ngày trước đã được nhận thức và cơ quan chức năng có trách nhiệm đã đo lường sự nguy hiểm đang đe dọa người dân. Nó đặc biệt ở các tỉnh Nam Kỳ mà các cuộc tấn công chống lại người Việt thân Pháp đã xảy ra.
Con số nạn nhân trong những ngày 24-25-26 tháng có thể được ước tính gần 300 người Pháp và nhiều người Việt Nam. Họ là bác sĩ, linh mục, các kỹ sư, các nhà sản xuất, đại lý các công trình công cộng, các nghệ nhân, thương gia. Trong đó có giám đốc của công ty nước, người tạo dựng công ty Nạo vét, một sĩ quan hải quân... Họ đã phục vụ tốt nhất trong các dịch vụ y tế, phát triển, sự thịnh vượng của đất nước này. Họ bị kết án tử hình vì họ là người Pháp và nước Pháp tôn vinh sự hy sinh của họ bằng câu khẩu hiệu  "Hy sinh cho nước Pháp". 

Theo lời ba tôi kể lại đây là giai đoạn đen tối nhất của những người Pháp tại Nam kỳ nói chung và Sài Gòn nói riêng. Nó là chuỗi sự kiện kéo dài cho tới ngày bị thãm sát: 

- Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật tiến hành đảo chánh. Lực lượng Pháp chống cự yếu ớt cuối cùng đầu hàng quân Nhật trên toàn Đông Dương. Tại Sài Gòn, người Pháp bị quân Nhật xỏ dây kẽm xuyên bàn tay bắt dẫn từng đoàn qua các đường phố. 
- Đêm 22/8/1945, Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Kỳ (thuộc chính phủ De Gaulle) Jean Cédile nhảy dù xuống gần Biên Hòa và bị nông dân bắt giữ giao cho quân đội Nhật. Sau đó ông được thả ra. Ngày 27/8/1945, Cédile gặp Trần Văn Giàu để bàn về tương lai của Việt Nam. Cédile đề nghị tương lai chính trị của Việt Nam chỉ được bàn sau khi người Pháp đã khôi phục quyền hành và phải được đặt trong khuôn khổ Tuyên bố ngày 24/3/1945 của Pháp còn Giàu giữ quan điểm Pháp trước hết phải công nhận nền độc lập của Việt Nam rồi mới bàn tới quan hệ giữa Việt Nam và Pháp. Hai bên không đi đến thống nhất về vấn đề này. (nguồn Wikipedia)
Ngày 2/9/1945, tại Sài Gòn, khi người biểu tình đến trước cửa Nhà thờ Đức Bà thì có tiếng súng nổ từ phía Câu lạc bộ Pháp. Cuộc biểu tình biến thành một sự hỗn loạn. Cảnh sát Việt Nam đã bắt ngay hàng trăm người Pháp và thân Pháp. Vụ nổ súng làm thiệt mạng 4 người Pháp và 14 người Việt. 
- Đến ngày 16/9/1945, cuộc đàm phán Jean Cédile - Phạm Văn Bạch (Ủy ban Hành chính Lâm thời)  không đạt kết quả cụ thể.
Tướng Douglas D. Gracey, chỉ huy quân đội Anh, đến Sài Gòn ông ra lệnh cho quân đội Nhật tước vũ khí của người Việt Nam, đuổi Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ ra khỏi Dinh Toàn Quyền ở Sài Gòn.
- Lực lượng Bình Xuyên đã đánh bị thương một số quân nhân Pháp và đốt hai nhà của người Pháp. Đến đêm các cuộc tấn công vào người Pháp và người Việt tăng lên. 
Sáng ngày 19/9/1945, Cédile tổ chức họp báo và tuyên bố Việt Minh không đại diện cho nguyện vọng của người Đông Dương và không đủ khả năng duy trì trật tự công cộng.
Đêm 21/9/1945, Cédile gặp tướng Gracey để yêu cầu ông này trang bị vũ trí cho 14.000 tù binh Pháp. 
Rạng sáng ngày 23/9/1945, quân Pháp tấn công Toà Thị chính Sài Gòn.
Và cuối cùng ngày 24, 25, 26 xảy ra vụ thãm sát.

Ai là thủ phạm chính trong vụ thảm sát?

Khi đọc tài liệu về cuộc đời của Bảy Viễn của Lê Mạnh Hùng viết, chúng ta mới nhận diện được thủ phạm chính của vụ thãm sát chính là lực lượng Bình Xuyên:
Tháng Chín 1945, với quân đội Anh tiến vào Việt Nam để giải giới quân Nhật, e sợ đụng độ với quân Anh, Việt Minh rút lui lực lượng của mình về phía tây Sài Gòn để Bẩy Viễn ở lại làm tư lệnh lực lượng quân sự Sài Gòn - Chợ Lớn. Nhân vì lúc đó lực lượng Bình Xuyên dưới tay Bảy Viễn chỉ có chưa đầy 100 người, Trần Văn Giàu đề nghị Bình Xuyên hợp nhất với lực lượng Thanh Niên Tiền Phong tại Sài Gòn lúc đó có khoảng 2,000 người dưới sự chỉ huy của Lai Văn Sang. Sau khi gặp Viễn, Sang đồng ý sáp nhập lực lượng của mình vào với Viễn vì trong lúc lực lượng của Sang thiếu vũ khí và tiền bạc thì Bình Xuyên lại giầu có, vũ khí đầy đủ nhưng lại thiếu người. Thế là một liên minh quái đản mà chỉ có trong giai đoạn xã hội đảo lộn được thực hiện, trong đó những tay anh chị đao búa nhất trong xã hội đen của Sài Gòn đứng ra chỉ huy những đám sinh viên học sinh đầy lý tưởng.
Ðêm 23 rạng ngày 24 tháng Chín 1945, tù binh Pháp thuộc trung đoàn số 11 Bộ Binh Thuộc Ðịa được thả tự do và tái vũ trang mở cuộc đảo chính chiếm cứ các cơ sở công cộng tại Sài Gòn. Lực lượng này trục xuất ủy ban hành chánh Sài Gòn của Việt Minh ra khỏi tòa đô chánh. Cuộc đảo chánh này được dân Pháp ở Sài Gòn ăn mừng coi như chế độ thuộc địa của Pháp nay được tái lập. Thường dân Pháp đổ ra đường và vây đánh những người Việt tình cờ có mặt tại những khu vực người Pháp ở. Phản ứng của Bảy Viễn là điển hình của những tay anh chị. Trong ngày 24, một số người Âu bị bắt cóc hoặc ám sát chết tại khu bến cảng. Một toán vũ trang nổi lửa đốt chợ Bến Thành. Và tối ngày 25, một vụ thảm sát xảy ra tại một khu cư xá của người Pháp, Cité Heraud trong đó khoảng 450 người vừa Pháp vừa lai bị giết. Cuộc chiến Việt Pháp bắt đầu tại Sài Gòn từ đó.
Trong những ngày đầu, vì không có đủ quân để mở rộng vùng kiểm soát của mình, liên quân Anh Pháp chỉ lo bảo vệ Sài Gòn Chợ Lớn, nhất là khu vực quanh phi trường Tân Sơn Nhứt và cảng Sài Gòn. Nhưng tới ngày 3 tháng Mười 1945, đơn vị tiền phương của đạo quân Viễn Chinh Pháp, trung đoàn Bộ Binh Thuộc Ðịa số 5, đổ bộ vào Sài Gòn. Hai ngày sau đó, chính Leclerc, tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp cũng tới Sài Gòn và Pháp bắt đầu mở cuộc phản công."

Ngày nay những cư dân sống tại đường Trần Nhật Duật gần khu vực kênh Nhiêu Lộc đâu có biết trên mãnh đất mình đang sinh sống 71 năm trước đã xãy ra một vụ thãm sát kinh hoàng. Những tiếng la hét tuyệt vọng của những người không một tấc sắt trong tay giữa một bầy người điên cuồng. Đây là một hành động khủng bố không hơn không kém.


* Lại Văn Sang là Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia thời Ngô Đình Diệm làm thủ tướng và là người của Bình Xuyên.

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...