Thứ Ba, 5 tháng 1, 2016


Vén màn bí ẩn về 2 cổ thành Quy, Phụng
 bảo vệ Sài Gòn xưa
Sài Gòn hơn 200 năm trước từng có hệ thống thành Quy và Phụng kiên cố để phòng thủ với kiến trúc kiểu phương Tây, thể hiện tư duy quân sự hiện đại và tự chủ trong việc thực thi chủ quyền quốc gia. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, cả hai thành đều bị phá bỏ.


Bản đồ Sài Gòn năm 1790 do người Pháp vẽ, ở chính giữa là thành Bát Quái
 do vua Gia Long cho xây dựng. Ảnh tư liệu

Đối chiếu với bản đồ ngày nay, hai thành cổ này nằm gọn trong khu vực trung tâm quận 1 và 3, TP HCM.
Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa, năm 1790 Nguyễn Ánh thắng Tây Sơn và chọn đất Sài Gòn làm kinh đô, đặt tên là Gia Định kinh và ra lệnh xây thành Phiên An (còn gọi là thành Quy) - do hai sĩ quan công binh người Pháp là Olivier de Puymanel và Le Brun vẽ họa đồ - phải huy động tới 30.000 dân phu, thầy thợ đắp thành.
Thành Phiên An được xây kiên cố theo kiến trúc Vauban (kiến trúc phòng thủ do một kỹ sư người Pháp thiết kế) nhưng mang hình bát quái, theo phong thổ Á Đông. Thành được xây rất kiên cố với 3 lớp bảo vệ: lớp trong cùng là tường xây bằng đá cao 6,3 m, chân tường dày 36,5 m; lớp giữa là hào rộng với bề ngang 76 m, sâu 6,8 m có nhiều cầu bắc qua và lớp ngoài là lũy bằng đất với chu vi gần 4.000 m. 
Trên thành có nhiều tháp canh hình bát giác, bên cạnh có thang dây. Trong tháp có quân canh gác, có việc gì bất ổn thì ban ngày treo cờ hiệu, ban đêm treo đèn hiệu. Các quân sĩ trong thành cứ theo hiệu báo đó mà điều binh. Đối chiếu với vị trí hiện nay, Phiên An nằm giữa 4 con đường Đinh Tiên Hoàng (Đông) - Nam Kỳ Khởi Nghĩa (Tây) - Lê Thánh Tôn (Nam) - Nguyễn Đình Chiểu (Bắc).
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, người có rất nhiều công trình nghiên cứu về Sài Gòn, Phiên An là ngôi thành đồ sộ nhất trong lịch sử nhà Nguyễn. Lúc đầu được gọi là "Bát Quái", do có 8 cửa, bên trong thành xẻ 4 đường ngang, 4 đường dọc thành những ô vuông. Thoạt nhìn bản đồ giống như con rùa khổng lồ nên hay gọi là thành Quy.
Sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi vua, hiệu là Gia Long, dời kinh đô từ Gia Định kinh (Sài Gòn) về Huế. 9 năm sau kinh thành Huế được xây, Gia Định kinh được đổi thành Gia Định thành và trở thành thị sở của quan Tổng trấn Nam Kỳ.


Sơ đồ thành Bát Quái Sài Gòn do Trương Vĩnh Ký vẽ, Nguyễn Đình Đầu 
lược dịch và chú giải. Ảnh tư liệu

Khi làm Tổng trấn Gia Định thành, năm 1830 Tả quân Lê văn Duyệt đã cho xây thành Bát Quái cao thêm một thước rưỡi và dùng toàn đá ong, càng kiên cố. Vì việc sửa thành, cộng với hiềm khích trước đó, vua Minh Mạng (nối ngôi Gia Long) đã khép Lê Văn Duyệt tội nhị tâm (hai lòng) và cho san bằng mồ mả ông sau khi mất.
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự biến Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt nổi loạn, đánh chiếm thành Bát Quái và 6 tỉnh Nam Kỳ (1833-1835). Để đánh bại Khôi, Minh Mạng đã huy động hàng chục nghìn quân thủy, bộ vào Nam, bao vây chặt thành Phiên An. Tuy nhiên, do thành được xây dựng chắc chắn, bên trong lại có đủ khí giới và lương thực nên phải mất 2 năm mới chiếm được.
Sau khi dẹp binh biến Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng cho phá bỏ thành Bát Quái. Đến năm 1836 ông ra lệnh xây thành mới là Gia Định (còn gọi là thành Phụng) với khoảng 10.000 binh lính, dân chúng bốn tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long và Định Tường làm việc ròng rã trong hai tháng.
Theo sách Đại Nam Nhất Thống Chí, thành Gia Định có chu vi khoảng 1.960 thước, cao 4,7 m, hào rộng 52 m và sâu hơn 3 m. Thành cũng được xây bằng đá ong Biên Hòa và theo mẫu kiến trúc Vauban nhưng nhỏ, dễ bị bắn phá hơn vì chỉ có 4 pháo đài (thành Bát Quái cũ có 8 pháo đài). 

Màu đỏ là thành Bát quái xây năm 1790, bị vua Minh Mạng phá đi năm 1835. Màu xanh là thành Phụng, xây năm 1836 bị quân Pháp san bằng hơn 20 năm sau đó. Màu đen là các con đường của Sài Gòn sau này với tên đường trong thời Pháp thuộc. Ảnh tư liệu

Gia Định nằm ở góc Đông Bắc thành cũ, nay là khu vực giữa 4 con đường Nguyễn Du, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Đình Chiểu và Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày 17/2/1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định bằng 32 ổ mìn, hỏa thiêu tan tành thành Phụng, chỉ còn lại những đống gạch vụn. 
Theo thống kê, lửa đã thiêu hủy 2.000 cây súng cổ và gươm, giáo; 85 thùng thuốc súng và rất nhiều bì súng, hỏa pháo, diêm sinh, tiêu thạch, chì...; lúa trữ trong kho nuôi 6.000-8.000 nhân khẩu trong năm (trị giá khoảng 3 triệu france); tiền bản xứ (điếu và kẽm), ước trị giá bằng 130.000 France. 
Do có nhiều lúa gạo, vụ cháy kéo dài đến cả tuần. Dấu tích duy nhất còn lại của thành Phụng ngày nay là bức tranh vẽ ảnh người Pháp tấn công thành và những tàn tích dọc đường Đinh Tiên Hoàng về phía gần xưởng Ba Son.
Về dấu tích của thành Bát Quái, theo cố học giả Vương Hồng Sển, năm 1926, khi đào móng xây cao ốc ở góc đường Tự Do (nay là Đồng Khởi) và Gia Long (Lý Tự Trọng), người ta phát hiện nhiều đá ong lục lăng nên có thể khẳng định đó là chân cũ vách thành Gia Long xây năm 1790. Một di tích khác cũng của thành Quy được đào thấy năm 1935 tại nhà thương Đồn Đất (Bệnh viện Nhi Đồng 2), nay ở góc đường Lý Tự Trọng và Chu Mạnh Trinh.

Tranh vẽ quân Pháp chiếm thành Gia Định năm 1859. Ảnh tư liệu

Còn theo nhà bác học Trương Vĩnh Ký, trung tâm thành Quy ở nhà thờ Đức Bà hiện nay - khi xưa có dựng cờ lệnh to lớn. Lúc đào nền móng để xây nhà thờ gặp lớp tro, cây, gạch và đá cháy lụn vụn dày 0,3 m - có thể là di tích kho lương của Lê Văn Khôi bị đốt năm 1835. Trong đống tro này, thợ đào đất đã gặp ngổn ngang xác tiền điếu, tiền kẽm bị lửa cháy kẹo quánh lại thành khối, có cả đạn súng to bằng gang sắt, bằng đá khối...
Theo các nhà nghiên cứu, thành Phiên An tồn tại 45 năm và thành Gia Định 23 năm. Hai thành trì có một số mệnh, tuy ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn oai hùng trong lịch sử mở nước và giữ nước của quân dân Nam Kỳ Lục tỉnh. Nếu thành Quy thể hiện tư duy quân sự mang dáng dấp văn minh hiện đại của phương Tây, thì thành Phụng hoàn toàn do người Việt xây - chứng tỏ tính tự chủ trong thực thi chủ quyền quốc gia.

                                                                                                      Theo VnExpress

Chủ Nhật, 3 tháng 1, 2016

Nhà bác học thế giới Trương Vĩnh Ký

 học ngoại ngữ siêu phàm

01/01/2016 17:00 GMT+7
TTO -  Thông thạo 26 thứ tiếng lúc 25 tuổi, Trương Vĩnh Ký khiến nhà văn Pháp Émile Littré (1801-1881) kinh ngạc: "Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học (bác học ngôn ngữ) bậc nhất thời nay".
Tượng Trương Vĩnh Ký ở một góc công viên Thống Nhất nhìn ra nhà thờ Đức Bà năm 1969 (hiện được đặt ở Bảo Tàng Mỹ Thuật TP.HCM)  - Ảnh tư liệu
​Ngay từ thập kỷ 50 - 60 của thế kỷ XIX, Trương Vĩnh Ký, một người Việt Nam đã thông thạo nhiều ngôn ngữ Đông Nam Á cũng như các ngôn ngữ khác trên thế giới, như các thứ tiếng: Campuchia, Thái Lan, Lào, Malaysia, Myanmar, Chăm, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Ý, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hi Lạp, Latin… để giao lưu và hội nhập dễ dàng với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thần đồng tự học nhiều hơn ở trường
Trương Vĩnh Ký từ lúc lọt lòng mẹ (6-12-1837) ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thành cho đến lúc qua đời (1-9-1898) ở Chợ Quán, Sài Gòn đã trải qua bao cơn sóng gió.
Cha ông là cụ Trương Chánh Thi, quê quán Bình Định, vào Nam lập nghiệp ở một khu vực đất Vĩnh Long (nay khu vực này thuộc Bến Tre).
Cha ông là một nhà Nho học, thích thi phú, được bổ nhiệm làm lãnh binh dưới triều Minh Mạng của nhà Nguyễn, mất lúc Trương Vĩnh Ký 3 tuổi.
Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Châu, một người mẹ hiền và lam lũ, sinh một gái và hai trai.
3 tuổi, ông thuộc làu Tam tự kinh.  4 tuổi, ông học viết. 5 tuổi (năm 1842) cắp sách đến trường học chữ Nho, chữ Nôm với thầy giáo Học.
Sau vài ba năm, ông thông suốt Minh Tâm Bửu Giám, đọc Tứ thư, Ngũ kinh, thuộc nhiều thơ Đường, thơ Tống...    
Ngoài ra, theo lời những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết. Cậu bé Ký đọc sách mà người cha mang từ miền Trung vào như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, thơ Tống...
Học tiếng La tinh với bạn Lào, Thái, Miến, Nhật, Trung..., học luôn tiếng bạn bè
Sau khi ông Trương Chánh Thi chết, một nhà truyền giáo thường được mọi người gọi là Cố Tám đã chỉ dạy cho cậu bé Trương Vĩnh Ký học chữ Latin, chữ Nôm và ít chữ sau này gọi chữ “Quốc ngữ“.
Ông nhận thấy cậu Ký còn nhỏ mà có đầu óc thông minh hơn người, chỉ biết thú đọc sách hơn đi chơi đùa, có chí cầu tiến, đã gửi cậu Ký cho một người Pháp tên Borelle (tên Việt Nam là Thừa Hòa) ở Cái Nhum (Vĩnh Long) nhận nuôi dạy Trương Vĩnh Ký về tiếng Latin và tiếng Pháp năm 1846.
Rồi ông Thừa Hòa phải đi xa nên đã nhờ một người Pháp tên là Bouilleaux (tên Việt Nam là Cố Long) lo hộ việc nuôi dưỡng và học hành của cậu Ký.
Năm 11 tuổi (1848), Trương Vĩnh Ký được Cố Long gởi đến học tại Pinhalu (Phnom Penh, Campuchia) được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Phnom Penh độ 6 dặm, dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa.
Lớp học có 25 học sinh từ 13-15 tuổi và Trương Vĩnh Ký là người nhỏ nhất. Trương Vĩnh Ký gặp gỡ, ăn ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á như: Campuchia, Lào, Thái Lan, Myanmar, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Ciampois (Chăm)… Kết quả: cậu thiếu niên 13 tuổi Ký đã nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên của các bạn cùng trường.

Trương Vĩnh Ký còn học ngoại ngữ ở các sách và tự điển có trong thư viện của nhà trường. Các nhà ngôn ngữ học đương thời cho rằng Trương Vĩnh Ký đã tự tìm ra những quy luật ngữ pháp giống nhau, khác nhau của các tiếng nước ngoài để học nhanh và dễ dàng. 
Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Trương Vĩnh Ký được chọn là một học sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở đảo Penang, Malaysia.
Năm 14 tuổi (1851), Trương Vĩnh Ký tiếp tục được gởi vào trường ở Poulo Penang (một hòn đảo nhỏ trên vùng Nam Dương, thuộc Malaysia, nơi người Hoa và thổ dân Malaysia sống bằng kỹ nghệ khai thác mỏ kẽm. 
Khi đến nơi, Trương Vĩnh Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên.
Trong khoảng thời gian 7 năm theo học tại đây, Trương Vĩnh Ký học chuyên ngữ Latin và Hi Lạp. Ngoài ra, ông còn học nâng cao các thứ tiếng khác như Ấn Độ, Anh, Tây Ban Nha, Malaysia, Nhật, Hi Lạp, Thái Lan, Pháp, Ý…
Trong thời gian ở Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ thông minh của Trương Vĩnh Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường. 
Ông đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hi Lạp, Tây Ban Nha... Ông tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình.  
Trong thời gian theo học tại Penang, Trương Vĩnh Ký tự học tiếng Nhật, Ấn bằng cách cắt các báo cũ, rồi dùng phương pháp đối chiếu, diễn dịch mà tìm ra các mẹo luật văn phạm. 
Nhà nhiếp ảnh người Anh là J.Thomson viết quyển “Mười năm du lịch Trung Quốc và Đông Dương”, trong đó có đoạn: “Một hôm đến thăm Trương Vĩnh Ký, tôi thấy ông đang soạn sách Phân tích so sánh các ngôn ngữ chủ yếu trên thế giới, tác phẩm này ông bỏ ra nhiều năm làm việc cần cù. Chung quanh ông đầy những quyển sách quý và hiếm mà ông tìm kiếm được ở châu Âu, châu Á…”.
Với trí thông minh, sự sắc sảo thiên bẩm và chí phấn đấu cao, lại chịu khó tìm tòi, tự học trong một ngôi trường đa sắc tộc, nên Trương Vĩnh Ký đã thông thạo các ngoại ngữ phổ biến ở khu vực lúc bấy giờ.
Như vậy, việc học ngoại ngữ của Pétrus Ký được thực hiện một cách khoa học; có phân tích, đối chiếu giữa các thứ tiếng. Và trên hết là sự lao động miệt mài, công phu, chứ không đơn thuần chỉ dựa vào trí thông minh như nhiều người nghĩ.
Càng khâm phục hơn khi biết rằng việc học tập của ông vô cùng vất vả, nhiều ngoại ngữ ông học từ chính những người bạn học của mình, đúng như ông bà ta thường nói: “Học thầy không tày học bạn”.
Viết sách dạy những tiếng Pháp lẫn nhiều tiếng trong Asean ngày nay
Trương Vĩnh Ký thông thạo và nắm vững quy luật học các ngoại ngữ của các quốc gia trong khu vực và đã truyền kinh nghiệm của mình qua việc xuất bản sách. Vào cuối thập niên 1880, ông đã xuất bản sách dạy tiếng Thái Lan, Campuchia.
Đến năm 1892, ông soạn được ba bộ sách dạy tiếng Miến Điện (tức Myanmar ngày nay): Cours de langue birmane, Vocabulaire français-birman, Guide de la conversation birman[e]-français. Từ năm 1893, ông tiếp tục xuất bản sách dạy tiếng Lào, Malay, Tamoule (Tamil?), Ciampois (Chàm).
Émile Littré, nhà văn Pháp, năm 1862 đã viết: “Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhựt Bổn, Mã Lai, Xiêm... Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh anh như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay”.
Năm 1874, Trương Vĩnh Ký đã được thế giới bình chọn là “nhà bác học về ngôn ngữ”, nằm trong danh sách 18 nhà bác học thế giới của thế kỷ XIX, được ghi tên vào các danh nhân thế giới trong Tự điển Larousse.
Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Chân dung Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay
Tượng Trương Vĩnh Ký đặt ở Bến Tre hiện nay
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Một trong những sách dạy ngoại ngữ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký - Ảnh tư liệu
Lễ khánh thành tượng Trương Vĩnh Ký thời thuộc Pháp ở một góc công viên Thống Nhất trên đường Norodom (nay là đường Lê Duẩn) - Ảnh tư liệu
Tượng Petrus Trương Vĩnh Ký trước 1975 ở khu vực công viên Thống Nhất hiện nay  - Ảnh tư liệu
Tượng Petrus Trương Vĩnh Ký trước 1975 ở khu vực công viên Thống Nhất hiện nay  - Ảnh tư liệu
* Học giả Pháp Jean Bouchot cuối thế kỷ 19 khẳng định Trương Vĩnh Ký là "một nhà bác học duy nhất ở Đông Dương và cả với nước Trung Hoa hiện đại". Ông viết:: "Người dân hoàn toàn Nam Kỳ ấy sánh kịp với các nhà thông thái xứng đáng nhất của Âu châu trong đủ ngành khoa học...".
Nhà văn Sơn Nam: "Ông Trương Vĩnh Ký từ khi đỗ đạt cho đến khi mất vẫn tỏ ra thân Pháp. Tuy nhiên, người ở miền Nam không bao giờ khinh rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch...Ông này khi sanh tiền tuy là nhà nước tin cậy mặc dầu chớ chẳng hề ỷ thế mà hại quê hương, chỉ vẽ cho các quan Lang sa biết phong tục lễ nghĩa của con nhà An Nam. Thiệt là quan thầy của cả và Nam Kỳ...".
Giáo sư Thanh Lãng: "Trương Vĩnh Ký không đạo mạo, không đài các, không cao kỳ; ông trai trẻ hơn, ông mới hơn...Và nhờ ông, câu văn Việt được giải phóng khỏi những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là "cách nói tiếng An Nam ròng" và viết "trơn tuột như lời nói". Nếu đem phân tích theo ngữ pháp thì thấy lôi thôi, nhưng so với văn xuôi khác ra đời sau ông 20, 30 năm, văn ông vẫn còn hay hơn, mạch lạc khúc chiết hơn.
Nhà nghiên cứu Lê Thanh: "Từ nhỏ được giáo dục theo phương pháp Âu Tây, khi trưởng thành theo giúp việc người Pháp, thế mà bằng hữu viết thư giục ông, ông không nghe, vẫn khăng khăng từ chối để suốt đời được giữ bộ quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy.
HỒ TƯỜNG biên soạn

Thứ Bảy, 2 tháng 1, 2016


Điều ít biết về tuyến đường sắt đầu tiên của Việt Nam


Ra đời năm 1881, tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho đã thay đổi tư duy giao thông của người Việt lúc đó chỉ với hai phương tiện là ngựa và ghe thuyền.
Khi xâm chiếm Việt Nam, người Pháp muốn xây dựng tuyến đường sắt đi các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long nhằm khai thác vùng đất giàu có này. Sau những cuộc tranh luận kéo dài về hiệu quả kinh tế và sự cần thiết, đầu năm 1881, họ quyết định xây đường sắt từ Sài Gòn tới Mỹ Tho dài hơn 70 km, đây cũng là tuyến đường sắt đầu tiên của Đông Dương,với tổng kinh phí gần 12 triệu France. Mọi vật liệu đều chở từ Pháp sang. 
Vào giữa năm, công trường được tổ chức quy mô, rất khẩn trương, huy động 11.000 lao động và có mặt nhiều sĩ quan công binh cùng nhiều kỹ sư từ Pháp sang.


Một chuyến tàu chờ đợi để khởi hành Sài Gòn - Mỹ Tho vào ngày 20/7/1885, ngày mở đầu của tuyến đường sắt. Ảnh: Maison Asie-Pacifique (MAP).

Theo các tài liệu được lưu giữ, phần lớn tuyến đường sắt này xuyên qua những cánh đồng và đường dân cư. Trong đó, một số đoạn đất thấp và bùn lầy phải mất thêm thời gian gia cố nền đường.
Một vấn đề khác là tuyến đường sắt này bị ngăn cách bởi 2 con sông. Vì vậy, vừa thi công các nhà thầu vừa đặt hãng Eiffel (Pháp) chế tạo 2 cây cầu sắt Bến Lức (bắc qua sông Vàm Cỏ Đông) và cầu Tân An (bắc qua sông Vàm Cỏ Tây) để xe lửa qua sông. 
Ngày 20/7/1885 chuyến tàu đầu tiên xuất phát từ ga Sài Gòn, vượt sông Vàm Cỏ Đông đến ga cuối cùng tại trung tâm thành phố Mỹ Tho, đánh dấu sự ra đời của ngành đường sắt Việt Nam. Tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho được đánh giá là giúp thay đổi hẳn tư duy giao thông của người Việt vào cuối thế kỷ 19 khi chỉ có hai phương tiện là ngựa và ghe thuyền.
Để đưa tàu hoả vượt các con sông lớn khi hai cây cầu chưa xong, các toa tàu được tạm tách rời để đưa lên phà qua sông rồi mới nối lại cho chạy tiếp. Chiếc phà khổng lồ máy hơi nước chở được 10 toa xe, được lắp đặt đường ray và một thiết bị để nối đường ray trên mặt đất với ray phà.
Nếu hình ảnh đoàn xe lửa dài ngoằng chạy xì khói ầm ầm trên 2 thanh sắt đã quá lạ lẫm đối với người dân bản xứ thì hình ảnh những chiếc phà "cõng" xe lửa qua sông càng khiến họ thích thú hơn. Việc xe lửa phải "lụy" phà kéo dài khoảng một năm sau khi 2 cầu sắt được hoàn thành vào tháng 5/1886.
Tuyến đường sắt có tổng cộng 15 ga. Xe lửa xuất phát từ ga Sài Gòn (công viên 23/9 ngày nay) đi qua An Đông, Phú Lâm, An Lạc, Bình Điền. Trên Quốc lộ 1, xe lửa dừng lại ở các ga: Bình Điền, Bình Chánh, Gò Đen, Bến Lức, Cầu Voi, Tân An, Tân Hương, Tân Hiệp, Trung Lương và kết thúc tại ga Mỹ Tho nằm sát sông Tiền - chỗ tượng đài Thủ Khoa Huân ngày nay.
Thời gian đi hết tuyến khoảng 2 tiếng rưỡi, về sau được rút ngắn chưa tới 2 tiếng, tức khoảng 37 km/h. Đây là tốc độ rất nhanh so với phương tiện phổ thông của người Việt lúc bấy giờ.


Tàu lửa tuyến Sài Gòn - Mỹ Tho phải 'lụy" phà qua sông lúc 2 cây cầu sắt Tân An và Bến Lức chưa xây xong. Ảnh tư liệu

Xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho ngày ấy sử dụng đầu kéo là máy hơi nước. Nó chạy nhanh hay chậm tùy vào “hơi” của nồi “súp de”. Khi lên dốc qua cầu, nếu nồi “súp de” không đủ mạnh thì xe chạy không nổi, bị tuột lên tuột xuống.
Học giả Vương Hồng Sển trong cuốn Sài Gòn năm xưa đã miêu tả hài hước về đoàn tàu: "Mỗi lần chạy đầu xe lửa Le Myre de Villers vừa ho vừa khạc ra khói vừa thét ra lửa, mà có khi không đủ trớn lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức, trèo lên tụt xuống, lên dốc không nổi... trối kể, xe cặp bến cũng còi, cũng 'xả hơi' ồn ào oai vệ khiếp”.
Đến năm 1896, các đầu máy loại mới 220-T-SACM có công suất kéo lớn hơn được đưa vào Nam kỳ thì tuyến xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho mới hết cảnh “cà xịch cà lụi” mỗi khi qua cầu. 
Người Sài Gòn về miền Tây lúc ấy bằng cách ngồi xe lửa tới Mỹ Tho, rồi đi tiếp bằng tàu ghe đến những nơi cần đến. Ngược lại, bà con miền sông nước muốn đi Sài Gòn thay vì lênh đênh trên ghe tàu chậm chạp, chỉ cần đi tàu ghe đến Mỹ Tho, rồi chuyển qua đi xe lửa vừa nhanh vừa đẹp. Nhờ có tàu lửa, người ở Sài Gòn có thể sáng đi xe lửa xuống Mỹ Tho rong chơi đồng ruộng, ăn uống thoải mái, rồi chiều vẫn kịp đón xe về ngủ ở Sài Gòn. Những người đi buôn hàng có thể xoay hai ba chuyến mỗi ngày. 
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, ý muốn ban đầu của Pháp là xây tuyến đường sắt đến Vĩnh Long, sau đó nối tiếp đến Phnom Penh (Campuchia). Song, do cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của họ gặp khó khăn nên kế hoạch chỉ xây đến Mỹ Tho mà thôi.
Từ khi được đưa vào sử dụng tuyến đường sắt này rất lãi, có năm lên đến 4 triệu France. Nhưng đến thập kỷ 50 của thế kỷ 20, xe hơi phát triển cùng hệ thống đường bộ Sài Gòn - Mỹ Tho được đầu tư gần như xa lộ nên người ta chuyển sang đi đường bộ. Có những ngày cả đoàn tàu chỉ có vài chục người. Năm 1958, tuyến đường sắt này đã bị chính quyền Sài Gòn cũ cho ngưng chạy.




Tàu lửa Sài Gòn - Mỹ Tho ngừng hoạt động sau 73 năm gắn bó người dân Nam Bộ. Ảnh tư liệu

Với 73 năm tồn tại, tuyến xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho đã tác động mạnh vào đời sống, tình cảm, tập quán, văn hóa... của người dân Nam bộ, đặc biệt là khu vực phía bắc sống Tiền. Trong cuốn Sài Gòn năm xưa, học giả Vương Hồng Sển đã ghi lại khá nhiều mẩu chuyện, câu ca dao có liên quan đến tuyến xe lửa này.
Chẳng hạn, câu thơ truyền miệng tả cảnh ga Bến Thành như sau: "Mười giờ tàu lại Bến Thành/ Xúp lê vội thổi, bộ hành lao xao". Hay: "Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ/ Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu...".
Qua bao nhiêu thời gian, tuyến đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho giờ chỉ còn lại trong ký ức những người lớn tuổi. Hiện, toàn bộ tuyến đường sắt vàng son một thời đã bị tháo dỡ, ga Sài Gòn cũng bị dời ra Hoà Hưng, chỉ còn sót lại vài hạng mục như trụ cầu, nhà ga rải rác suốt tuyến đường hơn 70 cây số.

                                                                                    Trung Sơn

Một số hình ảnh liên quan


Cầu Bến Lức thời thuộc địa


 Cầu Bến Lức trước 1975




Cầu Tân An thời thuộc địa


Cầu Tân An trước 1975


Nhà ga Mỹ Tho


Nhà ga Mỹ Tho


Nhà ga Mỹ Tho với khách sạn Minh Tân


Dấu vết còn lại của đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho tại đường Hùng Vương trước 1975

Thứ Sáu, 1 tháng 1, 2016

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ



                                   791. Ngã ba Carabelli/Nguyễn Thiệp - Tự Do/Đồng Khởi xưa và nay.


                                   792. Đường Nguyễn An Ninh nhìn từ chợ Bến Thành xưa và nay.


                                   793. Trạm xe buýt chợ Bến Thành năm 1953 và hiện nay.


                                   794.  International House số 57 Nguyễn Huệ khi xưa và Amigo Steakhouse ngày nay.


                                   795. Những cửa tiệm đường Hàm Nghi đoạn giữa Pasteur và Tôn Thất Đạm xưa và nay.


                                   796. Hình ghép cảnh xe tramway tại quảng trường nhà hát thành phố năm 1948 và vị trí hiện nay.


                                   797. Grand Hotel de la Rotonde khoảng năm 1900 ngày nay là Seaprodex.


                                   798. Vị trí giao lộ Võ Văn Kiệt và Hồ Tùng Mậu ngày xưa là tuyến đường xe tramway Sài Gòn - Chợ Lớn.


                                   799. Giao lộ Phủ Kiệt (Hải Triều) với Võ Di Nguy (Hồ Tùng Mậu) năm 1962 và nay.


                                   800. Tổng nha quan thuế góc Hàm Nghi năm 1966 và hiện nay.


Nguồn Trung Ngô, Tim Doling

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...