Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013


Đây là bài của một cựu học sinh trường Jean Jacques Rousseau năm 1959 viết về Sài Gòn xin giới thiệu đến các bạn.

SÀI GÒN VÀ NHỮNG TÊN ĐƯỜNG XƯA
         
                                                      Tác giả : Trần Ngọc Quang, JJR 59  


Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội.... luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước, nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn đọc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để tu bổ về sau.

Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp vào chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Tân Châu Cảng chìm trong khói lửa, lúc đó Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp. 

Tôi lớn lên tại Sài Gòn, tại số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai tới nay, đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet  thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập : "nhờ vậy" mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp, nên tôi đi bắt đến khuya mới về ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách. 

Sau khi "chạy giặc" hồi 1945 vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ "Huyện Sỹ" đường Frères Guillerault và năm sau rồi dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet. 

Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905, ông là người giàu có vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu, vợ của Hoàng Đế Bảo Đại. Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là  để tưởng nhớ  đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd,  đường Frères Guillerault (có chữ "S" sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

Trong lúc "tản cư" tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp "douzième" trường Chasseloup-Laubat, thay vì Petrus Ký như Ba tôi."Trường Chasseloup" xây cất trong ba năm nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt, lúc đầu mang tên Collège Indigène de Saigon, nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928 trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946 quân đội pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò ! Lớp 12è niên khoá 1946-1947 trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó, sau đó vài năm trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến  ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ "Toà Tân Đáo" (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi, mà là để tranh thủ thời giang để cạo mủ cao su !

Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát ? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và  Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette ? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày trở thành một trái banh nhỏ.

Như vậy tôi thuộc vào thành phần "Nam Kỳ chánh cống" và "dân Sài Gòn một trăm phần trăm", lớp tuổi gần 70 và và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và nhũng bạn gốc "Bắc trước năm mươi tư" mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng !  Không phải tôi bị "tây hóa"nên không chịu dùng tên việt nam, nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi, hơn nửa lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông nầy là ai mà họ đặt tên đường, sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…

Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, "Chú Ba Xích Lô" mỗi  ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua  đường Chemin des Dames và băng qua  đường Lacote (chớ không phải  Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận, dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẻ).

Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn "Bờ Rô" để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ "préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông "Moreau", tên của người quản thủ pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là "vườn Ông Thượng", có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời pháp thuộc vườn "Bờ Rô" nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869 Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên rue de la Pépinière, để  biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên "Ông Thượng" là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là "vườn Bờ Rổ", sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.

Ra vườn Bờ Rô gặp  đường Chasseloup-Laubat rồi  đi thẳng trên  đường Larégnère, sau  đó tới  đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère ) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa, ở vùng trường đua Phú Thọ, giữa lực lượng cua Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đốc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d'Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955 đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.

Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho tên Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở  thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy), sau đó chùa được lập làm đồn chống pháp nên bị lính pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn, trong Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông việt nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu  (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà việt nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris: Bà kể lại rằng vào năm 1943 nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn; vào đầu năm 1945 chánh phủ pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945 Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy, và khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947 nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh. 

Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lơp nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo "Kinh Tàu" (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành, về sau nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).

 Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một "đứa con" của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917), đến cuối đường gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành), đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d'Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau "Mả Lá Gẫm", đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847, mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất, và Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ, như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những  trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác, thuở ấy đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn : Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952 đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý), đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat, rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel : Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).

Rồi cứ đi theo mãi đường d'Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy cua các Đề Đốc Pháp đóng tại đó, để về Ngã Sáu (Phù   Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames,  đường Verdun,  đường Arras,  đường Champagne,  đường Dixmude,  đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức tất cả quân pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ, còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard ) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.

Vào cuối thế kỷ XIX kinh rộng nhứt của Sài Gòn là "Kinh Lớn" hay "Kinh Charner" đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Xã, có hai đường dọc hai bên : đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người pháp    lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi "đường Kinh Lấp" thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales), theo Học Giả Vương Hồng Sển vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa, và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard, vì thế đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là "Bùng Binh" trước chợ Bến Thành mà người pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Xã, ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên tên là Place Francis Garnier để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác củng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858) sau nầy đường Pellerin lấy tên là Pasteur.

Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền "Le Catinat" lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều "Ông Tây" ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental, lúc  đó chưa có tiệm Givral và nơi  đó là Nhà Thuốc Tây Solirène, thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dười tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó; đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước "Nhà Hát Tây", cất theo kiểu Opéra bên Paris.  Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn, khi mới tráng nguời ta kêu là đường "Keo Su" dài tới Nhà Thờ Đức Bà; qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông "Cha Cả" hay Evêque d'Adran dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si  tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay "Hồ Con Rùa". 

Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là "xe lửa giữa" vì chạy giửa đường Gallieni, tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ "e" chớ không phải với chữ "é" vì là người gốc Ý Đại Lợi.

Xe  điện chạy thẳng vô  đường rue des Marins, qua khu  Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và  đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm "Le Jaccario" đậu gần đó trên "Kinh Tàu" hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là rue des Marins), ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, nay vẫn là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier, tại Kinh Tàu.

Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắng "dằng thung" trên mấy cây soài nên bị "Ông Từ" rượt nhiều lần ! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt "Ánh". Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris. Tôi nhớ, vì học "trường tây" nên tôi thắc mắc và tự hỏi  Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy ? Sau nầy tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo "Nữ Giới Chung" cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH ?

Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay vẫn là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì "Mì La Cai", đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần gốc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì dường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) dặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe  đạp. Nếu  đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa  đường nầy  đến  đường Frédéric Drouhet sẻ thấy những biệt thự mà "Chú Hoả" cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Dejean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người việt nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành), sau 1954 các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

Lúc đó đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004 : đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup-Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique, Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giưã người việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954 đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975 không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy, cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký ! Cho tới nay tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài "Sử Gia" buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng "Tả Quân Lê Văn Duyệt", đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.

Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài việt nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố, ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên ra Trường Thông Ngôn (Ecole des Interprètes) nằm trong Tòa Án, nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi.

Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson de Sailly tại Paris, nhập học vô trường Saint-Cyr vào năm 1904. Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.

Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa, vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983 đã sang bằng "Lăng Cha Cả", có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam  nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân việt nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evêque d'Adran, người  đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi,  đi với  Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều  đình vua Louis XVI  để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẩn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Mộ ông người Sài Gòn gọi là Lăng Cha Cả là một trong những di tìch xưa nhứt của Sài Gòn "ở Gia Định" vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Páp năm 1983 chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm cua Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 "Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine" và sau khi xem xong tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giử biên cưong …

Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cạp có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.



Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013


Sài Gòn chỉ còn trong nỗi nhớ

Viết cho cho các bạn học trường Lê Quý Đôn giai đoạn trước năm 1975 nay không còn ở lại trên quê hương nữa.

Sài Gòn đối với các bạn giờ xa quê hương là niềm nhớ khôn nguôi và không phải ngẫu nhiên mà nó đã trở thành biểu tượng ở hải ngoại như trường hợp Little Saigon ở Cali. Tôi viết bài này nằm ôn lại những kỷ niệm Sài Gòn ngày xưa, ngày mà chúng ta còn trên mình chiếc áo trắng học trò. Tôi viết cho giai đoạn của lứa tuổi sinh từ năm 1957 đến 1963 tức là từ lớp 6 đến lớp 12, những bạn đã học bậc trung học tại Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn.
Lịch sử Sài Gòn trãi qua biết bao nhiêu biến động theo dòng lịch sử, đã mang biết bao nhiêu nỗi niềm buồn vui của những con người đã sống trong nó. Tôi còn nhớ như in cái ngày mà Nguyễn Chánh Thi làm cuộc đảo chánh Ngô Đình Diệm nhưng thất bại, rồi Phạm Phú Quốc bỏ bom dinh Độc lập, đám tang thống tuớng Lê Văn Tỵ, chuyến viếng thăm của tổng thồng Nam Hàn Lý Thừa Vãng (lúc đó tôi đang ở tại 230 đường Công Lý). Về sau là đảo chính 1/11/1963, đã làm hư hại nặng cho trường tôi đang học lúc bấy giờ là Lamartine, cạnh hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm, trước Sở Thú (lúc đó tôi ở tại 153 đường Tự Đức, Đa kao). Chính sự kiện hư trường này đã dần đưa tôi đến học trường J. J. Rousseau về sau là TTGD Lê Quý Đôn. Lúc tôi còn ở đường Công Lý và Tự Đức, ngoài giờ học tôi và các bạn tôi thường chạy chơi ở các con đường như Tú Xương, Ngô Thời Nhiệm, Phan Thanh Giản, Tự Đức, Phan Đình Phùng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Mạc Đỉnh Chi, Phùng Khắc Khoan,v.v…Những con đường ngày đó cho tới ngày 30 tháng 4 vẫn còn im ắng, những ngôi biệt thự nép mình dưới bóng cây. Tuổi thơ của tôi trôi theo những ngày tháng thật êm đềm. Sau này khi lên trung học,
hàng ngày mỗi lúc rãnh rỗi, tôi cùng với chiếc xe đạp rong ruỗi trên khắp các nẽo đường nhiều khi ra tận vùng Gia Định như Củ Chi, Nhà Bè, Thủ Đức. Bình Chánh. Sài Gòn đối với tôi là một vùng đất mênh mông, dù nơi đông đúc, xô bồ như giữa vùng trung tâm các chợ búa, trường học hay các nơi yên lặng nhất cũng đều mang những dấu ấn trong cuộc đời tôi.
Thế là đã 37 năm trôi qua, tôi xa Sài Gòn. Tôi đã bỏ Sài Gòn lại sau lung đi về vùng đất mới, bỏ đi khung trời đâu ắp kỷ niệm về những người thân và bạn bè của tôi. Nhất là từ cái ngày mà các bạn đã rời bỏ quê hương, bỏ lại chính tôi còn lại trên mảnh đất này. Nhưng nỗi nhớ vẫn mãi còn đó, nó vẫn âm ỉ trong trái tim tôi: tôi vẫn nhớ về các bạn, nhớ mái trường xưa và nhất là nhớ về một Sài Gòn thân thương.
Sài Gòn ngày nay có còn không? Tôi trả lời là không, nó đã chết từ ngày người ta đã đổi tên nó, đã phá bỏ đi rất nhiều công trình đáng nhớ. Sài Gòn ngày nay là một mớ xô bồ xô bộn, hàng quán, nhà hàng, khách sạn chen chúc nhau trên những con đường mà xưa nay được gọi là im ắng. Còn đâu “con đường cây xanh bóng mát” như trong bài Trả lại em yêu của Phạm Duy. Những khoảng trời xanh mênh mông ở khu dinh Độc lập, trường LQĐ đã bị chen vào những khách sạn cao tầng một cách lố bịch. Sài Gòn bây giờ tràn ngập những con người xa lạ. Họ trở thành chủ nhân ông thay thế những con người cố cựu tại đây. Họ chỉ biết sống vì lợi nhuận, không có một tý hiểu biết gì về văn hóa Sài Gòn. Họ đã làm xấu đi hình ảnh một Sài Gòn đáng yêu ngày nào.
Nói về Sài Gòn rất dài, ở đây tôi chỉ sơ lược một phần rất nhỏ thôi. Sau đây tôi với các bạn cùng ôn lại những hình ảnh Sài Gòn một thời để nhớ về những kỷ niệm mà chúng ta còn lưu giữ trong lòng.



Hồ Con rùa (ngày nay không còn con rùa, nó đã bị đăt chất nổ năm 1976 rồi). Quảng trường này giờ chung quanh tràn ngập hàng quán chứ không còn yên tĩnh như trong hình đâu.

Đây “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” một thời


                   Ngả tư Trương Minh Giảng – Phan Đình Phùng gần trường chúng ta.
 Đẹp không!



Đường Tự Do, công viên Chi Lăng  đối diện nó là dãy lề đường mà sau ngày 30/4 các bạn các trường trong đó có trường LQĐ dọn bàn ghế ra đây bán cà phê. Tôi nhớ hình như chỉ được gần một tháng thì bị dẹp. Công viên nay đạ bị xóa sổ thay vào đó là tòa nhà Vincom trông chẳng giống ai.
    

Tượng Petrus Trương Vĩnh Ký và nhà thờ Đức bà (tượng đã bị đập và dẹp bỏ sau 30/4, hiện tượng còn lưu giữ tại nhà bảo tàng nghệ thuật thành phố)




Bạn thấy Sài Gòn ngày xưa còn nên thơ không?


 Đây là đường Pasteur đấy các bạn


Đây là đoạn dường hai Bà Trưng (Tân Định) khúc bưu điện Tân Định, đi khoảng trên 100 m là tới nhà bạn Nguyễn Thị Anh Thư học lớp 10 năm 1975. Tôi nhớ số nhà là 250 không biết có phải không?



 Góc ngả tư Hồng Thập Tự - Công Lý. Các bạn thấy trường chúng ta chứ!



 Gần đến ngả tư Hồng Thập Tự - Công Lý


Đường Trần Quý Cáp. Bên trái là trường LQĐ có cổng ra vào cho học sinh ở Tiểu học và Trung học. Bên phải phía trước cổng Tiểu học, các bạn còn nhớ có hai xe bán nước giải khát không? ở xa bên trái là hotel Đức ngày nào.





Đường Hồng Thập Tự. Bên có dây kẽm gai là dinh Độc lập, còn phía bên này là cổng chính trường LQĐ

                                                                                                             (Còn tiếp)

Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2013


Điều tôi đề cập ở đây nó không còn là gì mới mẻ nhưng nó nói lên chính sự ngu dốt đã tạo ra sự việc trên. Sự phản đối việc lấy đất trường Lê Quý Đôn để xây Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN không chỉ có tại VN, tại chính đất Sài Gòn mà còn lan ra tận nước ngoài nhất là đối với cộng đồng cựu học sinh trường Chasseloup Laubat, Jean Jacques Rousseau và TTGD Lê Quý Đôn sau này. Sau đây là bài “Phá dỡ ngôi  trường của chúng tôi: tiếng ồn, tin đồn, và các sai lầm” được đăng trên trang web http://aejjrsite.free.fr của những cựu học sinh ở cái thời mà chúng ta chưa ra đời.


Démolition de notre lycée : bruits,rumeurs, et erreurs

On se rappelle tous la tristesse profonde ressentie lors de la démolition à partir du printemps 2010 du café Givral, du passage Eden, de la librairie Xuân Thu, bref, de l’un des quadrilatères historiques du centreville saigonnais. Trois quarts de siècle de la vie saigonnaise effacés au profit du Dieu Immobilier et de son Apôtre l’argent, représentés par une des plus grosses sociétés immobilières de Saigon, Vincom. Pfuitt, disparue, une partie de la mémoire de Saigon.

Patatras, voici qu’une série de courriels courant avril envahit nos boîtes à lettres électroniques, annonçant rien de moins que la « simple » démolition de notre bon vieux lycée , le plus ancien établissement d’enseignement public de toute l’Indochine, bâti en 1874, faisant de plus partie du patrimoine architectural et culturel recensé par la ville de Saigon. Et cela au profit, paraît-il, des plans immobiliers d’un établissement bancaire. Du coup, c’était notre mémoire collective à nous autres, anciens élèves de cet établissement, qui allait être touchée. Emoi général.

Doté de bons réflexes, notre désormais vice-président Nguyên Phu Son a demandé à un JJR saigonnais d’aller vérifier sur place, les travaux ayant parait-il débuté , un bulldozer ayant même été montré en photo dans un des courriels annonçant cette catastrophe. Résultat de la visite : rien. Zéro. Pas de bulldozer, pas de travaux. Ouf.. Mais que s’est donc passé, au juste ?

Le temps d’explorer les diverses sources d’information, et il semblerait que tout ce qui précède relève soit de rumeurs, soit de quiproquos sur la nature des informations et que notre lycée n’est pas menacé. Et cequi serait exact serait ceci :
-
la maison au coin des rues Nguyên Thi Minh Khai (ancienne rue Chasseloup-Laubat, plus tard rue Hông Thâp Tu jusqu’en 1975) et Lê Quy Dôn (ancienne rue Barbé) est occupée en location par 4 familles, en contradiction avec diverses résolutions du bureau exécutif du conseil municipal de Saigon, en jargon local Uy Ban Nhân Dân TPHCM. Il s’agit de la villa isolée, au coin en haut à gauche de la photo ci-dessus, du côté de l’économat du temps de notre jeunesse ; cette villa aurait été également celle du proviseur dans les années 1940

les résolutions récentes du conseil municipal sur la préservation et l’intégrité des sites, en particulier les sites occupés par les établissements de l’éducation (cas du lyée Lê Quy Dôn) sont très claires :

1) Décision (quyêt dinh) N°2 de l’an 2003 : doivent être rétrocédés aux fins de l’éducation nationale les terrains/locaux relevant de ces établissements et ayant été loués pour des activités non- éducationnelles, cas exact de cette villa dont l’adresse est le 112 rue Ng Thi Minh Khai mais qui a toujours fait partie du lycée Chasseloup-Laubat devenu Jean-Jacques Rousseau puis Lê Quy Dôn

2) Décision N° 5360 du 25 novembre 2010 sur la préservation intégrale de 168 lieux et sites saigonnais (incluant notre ancien lycée dont l’adresse est le N° 110 rue Ng Thi Minh Khai) à protéger à titre historique ou culturel or, la banque Công Thuong VN aurait souhaité racheter cette villa pour la remplacer par un immeuble de 4 étages destiné à ses activités : ce souhait aurait été fondé sur la vision erronnée – car illégale - de cette villa occupée en location par 4 familles n’ayant rien à voir avec le lycée ; pire, et par erreur, le Service de la Construction de Saigon (So Xây Dung TPHCM) a délivré un permis de construire pour cet immeuble de 4 étages en dépit de la Décision N°5360 et suite à une décision municipale en date de 2009 autorisant de manière paradoxale la banque Công Thuong VN à disposer du terrain de la villa pour un projet d’immeuble de 4 étages ; ce service de la construction s’est alors fait taper sur les doigts par le Service de la Culture et des Sports de Saigon (So Van Hoa và Thê Thao TPHCM) qui avait fourni le travail de recensement permettant la promulgation de la décision N°5360 ci-dessus

http://aejjrsite.free.fr Magazine Good Morning 1er mai 2011

Résultat final : une réunion a eu lieu le 14 avril à la mairie de Saigon et réunissant les divers protagonistes (Service de la culture et des Sports, Service de la Construction etc.) , présidée par le chef du Comité Economique et Budgétaire du conseil municipal (Uy Ban Kinh Tê và Ngân Sach), et a tout simplement annulé l’ensemble du projet de la banque, arguant de l’existence des 2 décisions N° 2 de 2003 et N° 5360 de 2010, et a rendu tout pouvoir au lycée d’utiliser le terrain pour un projet d’extension des locaux du lycée, destinés seulement aux élèves.

Notre bon vieux lycée semble donc être tiré d’affaire. Du moins tant que la presse locale intéressée (cas du journal Tuôi Tre) et que les observateurs désireux de préserver le patrimoine architectural saigonnais veilleront. Cette mini- crise a néanmoins démontré une chose : la bureaucratie saigonnaise est encore engluée dans la méconnaissance de ses propres décisions et textes qu’elle a elle-même votés et édités.

Nous terminerons le présent article par cet extrait de presse (« Tuôi Tre » du 15 avril 2011) fourni par Dang Dinh Cung JJR 64, lui-même se préoccupant en permanence de la préservation de notre lycée, ce dont nous lui sommes redevables :

TT - HĐND TP.HCM sẽ đề nghị UBND TP tìm vị trí khác để Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN xây dựng nơi làm việc.
Trao đổi với Tuổi Trẻ ngay sau cuộc họp sáng 14-4 về xây dựng tòa nhà Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN tại một phần nhà đất số 112 Nguyễn Thị Minh Khai nằm trong khuôn viên Trường THPT Lê Quý Đôn, ông Phạm Văn Đông - trưởng Ban kinh tế và ngân sách HĐND TP.HCM, chủ trì cuộc họp - cho biết các thành viên dự họp đã thống nhất chốt lại hai vấn đề nhằm giải quyết vụ việc này. Theo đó, cuộc họp kết luận rằng sự chỉ đạo về việc chấp hành nghị quyết HĐND TP trong công tác di dời các hộ dân, cơ sở trong khuôn viên trường học chưa xuyên suốt. Cụ thể, cuối năm 2007 UBND TP vẫn chủ trương không bán khu nhà 112 Nguyễn Thị Minh Khai để mở rộng khuôn viên Trường Lê Quý Đôn. Nhưng quyết định của UBND TP vào tháng 6-2009 lại chấp thuận cho Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN sử dụng khu đất cùng số này với diện tích hàng trăm mét vuông trên cơ sở đề nghị của giám đốc Sở Tài nguyên - môi trường TP. Phương án dời được thống nhất cao Ông Đông nhấn mạnh cuộc họp thống nhất cao sẽ đề nghị UBND TP quyết định di dời các hộ dân, công trình... để dành đất cho việc mở rộng một số hoạt động của Trường Lê Quý Đôn như chủ trương đã có từ cuối năm 2007. Cụ
thể, HĐND TP sẽ có văn bản đề nghị UBND TP tìm kiếm một vị trí khác để Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN xây dựng nơi làm việc, không tiếp tục xây tại khu đất 112 Nguyễn Thị Minh Khai và tiếp tục sử dụng khu đất này cho việc mở rộng ngôi trường là hợp lý nhất. Theo ông Đông, tại cuộc họp sáng 14-4 không có ý kiến khác với hướng này. Trường Lê Quý Đôn đã làm xong dự án sử dụng phần đất này, đang chờ cơ quan chức năng duyệt. Ông Huỳnh Công Hùng - phó Ban kinh tế và ngân sách HĐND TP - nói rằng thông qua cuộc họp sáng 14-4, Ban kinh tế và ngân sách HĐND TP còn muốn làm rõ gốc rễ, bản chất của vấn đề nói trên để có thông tin xem xét trách nhiệm của quá trình tham mưu, đề xuất những việc liên quan đến xây dựng tòa nhà làm việc của ngân hàng. Nhà 112 nằm trong khu vực bảo vệ II Liên quan đến vấn đề nói trên, ngày 14-4 Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP đã có báo cáo khảo sát nhà đất số 112
Nguyễn Thị Minh Khai, thuộc khuôn viên Trường THPT Lê Quý Đôn.
Tại báo cáo trên, sở kiến nghị cần phải xem xét lại việc xây dựng tòa nhà trụ sở ngân hàng, không thể xây dựng công trình mới tại khu vực bảo vệ II của di tích kiến trúc nghệ thuật công trình kiến trúc cổ đô thị Trường THPT Lê Quý Đôn và Trường THCS Lê Quý Đôn. Những vấn đề tôn tạo trường lớp trong khu vực bảo vệ II này cần tôn trọng nguyên tắc không phá vỡ cảnh quan xung quanh của tổng thể công trình kiến trúc đô thị Trường Lê Quý Đôn.
Theo Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP, việc xây dựng tòa nhà bốn tầng hiện đại làm trụ sở ngân hàng sẽ phá vỡ cảnh quan chung của tổng thể kiến trúc, mất đi khu vực cần mở rộng đáp ứng nhu cầu dạy và học. Nếu tòa nhà bốn tầng của ngân hàng mọc lên sẽ cao hơn công trình hiện hữu của Trường THCS Lê Quý Đôn, làm che khuất ánh sang và khoảng không gian cần thiết cho việc học tập, thực hành sinh hoạt, nghỉ ngơi của học sinh...
Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP cho rằng việc Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương VN đã được Sở Tài nguyên - môi trường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa xem xét đến yếu tố nguồn gốc đất khi hình thành ngôi trường vào năm 1874 và được ngành giáo dục liên tục quản lý cho đến nay. Còn Sở Xây dựng TP cấp phép xây dựng tòa nhà tại số 112 Nguyễn Thị Minh Khai sau ngày TP ban hành quyết định (tháng 11-2010) về kiểm kê di tích là chưa đúng với tinh thần bảo vệ di tích, di sản văn hóa theo Luật di sản văn hóa, cũng như không phù hợp với chủ trương, quyết định của TP về di dời tổng thể cả khu đất để đầu tư mở rộng trường. Do vậy, Sở Văn hóa - thể thao và du lịch TP kiến nghị trả lại không gian cho Trường Lê Quý Đôn (hiện ngân hàng đã thực hiện xong việc phá bỏ công trình cũ), kể cả khi ngân hàng đáp ứng các thủ tục. Sở cũng kiến nghị UBND TP tiếp tục chỉ đạo ngành giáo dục, Trường Lê Quý Đôn cần có phương án di dời các cửa hàng ở góc đường Nguyễn Thị Minh Khai - Lê Quý Đôn, di dời bốn hộ gia đình đang cư ngụ tại biệt thự số 112 Nguyễn Thị Minh Khai ra khỏi khuôn viên trường.


          aejjrsite.free.fr/goodmorning/gm121/gm121_BruitsSurNotreLycee.pdf


NHỮNG CẢM TƯỞNG VỀ MÁI TRƯỜNG XƯA
Đây là một số cảm tưởng về ký ức ngôi trường chúng ta từ thời nó còn tên Chasseloup Laubat đến Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn mà tôi sưu tầm trên các địa chỉ web có liên quan đến trường chúng ta. Xin giới thiệu cùng các bạn Lê Quý Đôn.

Trường Lê Quý Đôn

Hồi đầu năm 2012 tôi có ghé thăm lại trường Lê Quý Đôn sau hơn 30 năm xa vắng. Hồi đó hai anh em tôi cùng học ở ngôi trường này. Anh tôi hơn tôi 5 tuổi học trung học còn tôi thì học tiểu học. Tuy là học chung trường nhưng anh em tôi chưa bao giờ đưọc chạy chơi chung với nhau trong sân trường trong giờ ra chơi vì bên khu tiểu học và trung học bị ngăn cách bởi một bức tường rào. Giờ ra chơi tôi hay đứng chỗ hàng rào sắt gần chỗ đầu cầu thang ngăn khu tiểu học với trung học nhìn qua bên kia để tìm anh. Thỉnh thoảng anh cũng có ghé lại nói gì đó với tôi vài câu xong rồi lại chạy theo chơi với bạn của ảnh. Lúc đó tôi cứ ao ước cho mau lớn để được qua bên khu trung học chung với anh để xem thử có những thứ gì lạ ở bển nhưng rồi tôi chẳng bao giờ tôi thực hiện được ước mơ đó.

Mỗi lần nhớ đến trường cũ là trong đầu tôi hiện ra hình ảnh cổng trường bên khu tiểu học nằm bên đường Lê Quý Đôn, là hình ảnh của mái ngói rêu phong, những dãy tường sơn màu vàng với hàng cửa sổ bằng gỗ sơn màu xám có các lá sách thông gió nằm dọc theo hành lang. Tôi vẫn còn nhớ rõ mấy gốc cây cổ thụ cao lớn trong sân trường với lớp vỏ cây xù xì còn rễ cây thì uốn lượn có chỗ trồi hẳn lên mặt đất làm nức cả lớp nhựa đường tráng trên mặt sân. Những lúc trời mưa xuống thì nước mưa đọng thành vũng trong mấy cái hốc cây đầy lá mục. Ngoài ra trên mấy ngọn cây còn có cả sóc làm tổ nữa. Có lần tôi thấy mấy con sóc nâu nhỏ xíu phóng trên mấy ngọn cây cao chót vót, cũng có lúc chúng đào hang trong mấy cái hốc cây ở trên cao làm vỏ cây văng xuống đầy ở quanh gốc cây.

Hồi còn học ở mấy lớp nhỏ thì ba tôi hay chở hai anh em tôi đi học trên chiếc xe Vespa. Anh tôi ngồi phía sau còn tôi thì đứng ở cái bục để chân phía trước. Ba tôi thích vừa lái xe trên đường vừ cạ chiếc cằm đầy râu vào đầu tôi và hút gió mấy bản nhạc Trịnh Công Sơn. Khi tôi học đến lớp 3 hay lớp 4 thì ba tôi đưa anh em tôi đến trường buổi sáng còn buổi chiều tan trường thì hai anh em tôi dắt nhau đón xe lam về nhà. Hồi đó tôi theo anh tôi đi bộ từ trường (băng ngang qua chỗ bây giờ người ta làm bảo tàng chiến tranh) đến chỗ ngã 3 đường Trần Quý Cáp và Trương Minh Giảng để đón xe Lam về nhà. Tôi còn nhớ là trên xe lam rất là chật chội có khi phía sau nhét đến hơn 10 hành khách còn anh lơ xe thì đứng phía bên ngoài thùng xe chỗ cái bục bằng sắt để giúp hành khách lên xuống và vừa lo thu tiền vừa luôn miệng thông báo những chỗ xe sắp sửa chạy qua để hành khách biết trước mà chuẫn bị. Mỗi lần hành khách muốn xuống xe chỉ việc giơ tay vỗ vỗ vào lưng bác tài để báo hiệu. Lộ trình chuyến xe lam của anh em tôi chạy dọc theo đường Trương Minh Giảng, ngang qua ngã ba Kỳ Đồng rồi qua cầu và chợ Trương Minh Giảng đến Khỏi rạp xi nê Minh Châu một chút là đến khu chợ Vườn Xoài. Hai anh em tôi xuống xe ở chỗ ngân hàng Việt Nam Thương Tín gần cổng xe lửa số 6 xong đi băng qua con hẻm Phú Sơn Tự rồi theo đường Nguyễn Huỳnh Đức để về nhà.

Chung quanh trường Lê Quý Đôn có mấy con đường rất đẹp và thơ mộng, toàn là những cây cổ thụ với tàng lá cao lớn như me, thầu dầu, sọ khỉ... Có lần tôi hỏi anh tôi vì sao gọi là cây sọ khỉ vì nhìn khắp cả cây mà chẳng thấy chỗ nào giống sọ của con khỉ cả thì anh tôi giải thích là nếu nhìn vào cái cuống lá đã rụng thì nó có hình thù lồi lõm giống như cái sọ của con khỉ. Không biết là anh tôi nói như vậy có đúng hay không hay là ảnh lại bịa ra. Vào những ngày gió lớn thì hàng loạt trái dầu rụng xuống quay tít từ trên cao rồi từ từ đáp xuống đất như những chiếc trực thăng tí hon. Rồi thỉnh thoãng me dốt trên cây rụng xuống lộp độp trên lề đường, tôi lượm lên ra ăn thấy ngọt ngọt chua chua. 
Tôi cũng thích đồng phục của trường Lê Quý Đôn. Đơn giản mà Đẹp. Con trai tiểu học thì áo trắng quần short xanh, con trai trung học thì quần dài xanh còn con gái thì mặc váy ngắn (jupe) xanh rất là dễ thương. Cho đến bây giờ tôi vẫn thích con gái mặc váy hơn là những loại trang phục khác. Lần về Việt Nam đầu năm 2012 vừa rồi tôi có ghé thăm lại trường cũ. Lúc đó chắc là nhằm vào ngày bãi trường nghỉ Tết cho nên tôi không thấy có học sinh ở trong trường. Tôi đi lòng vòng mấy con đường chung quanh trường mà trong lòng thấy lạc lõng cô đơn. Trường xưa thì vẫn còn đó nhưng bạn bè xưa thì nay đã lưu lạc mãi tận nơi nào. Đang đi lang thang chung quanh trường để chụp hình thì tôi gặp một em nữ sinh cấp 2 đi ngang qua. Mừng quá tôi nói với em là hồi nhỏ tôi cũng đã từng học ở đây và xin phép được chụp hình phù hiệu trường Lê Quý Đôn trên ngực áo của em.
  
Hồi đó cứ đến ngày tựu trường là ba tôi lại dắt tôi ra tiệm sách bên kia đường đối diện với cổng trường để mua sách vở. Tôi còn nhớ là hồi đó ba tôi hay mua cho anh em tôi tập viết hiệu Olympic, bìa trước là hình quả địa cầu với hinh ông lực sĩ mặc áo thun có hình 5 vòng tròn thế vận hội giơ cao cây đuốc, còn bìa sau là bảng cửu chương. Lúc đó tập vở học trong lớp là phải đem ra tiệm để ép bìa nilon, mỗi môn một màu khác nhau. Bây giờ cứ mỗi lần ngửi thấy mùi nilon là tôi lại nhớ đến ngày tựu trường của ngày xưa. Ngoài ra tôi cũng được ba tôi mua cho các thứ lặt vặt khác như bình nhựa đựng nước uống, bình mực, viết chì màu, hộp đựng viết và mấy ngòi viết mực. Ngòi viết bầu thì nét chữ cứng nhưng giữ được nhiều mực nên lâu lâu mới phải chấm mực một lần còn ngòi lá tre thì thon nhỏ nên cho nét chữ mềm mại dùng để tập viết nhưng lại phải chấm mực thường xuyên.

Hồi đó ở trước cổng trường có nhiều thứ rất hấp dẫn. Cứ đến giờ tan học là mấy người bán hàng rong kéo đến bày bán đủ thứ các loại thức ăn và đồ chơi. Tôi còn nhớ mấy thứ trái cây như chùm ruột, cóc, ổi được ngâm trong mấy cái hủ thủy tinh xếp thành hàng bên cạnh mấy hủ muối ớt trên những chiếc xe đẩy. Mấy trái cóc xanh thì người ta lấy dao khứa chung quanh rồi nạy cho nó bung ra giiống như hình mấy ngón tay xòe ra ở trên đỉnh tháp con rùa, vừa lạ mắt và cũng gây cảm tưởng như trái cóc lớn hơn kích cỡ thật sự của nó. Còn món tôi thích nhất là món bột chiên. Bột gạo trắng cắt ra từng miếng vuông bỏ vô chảo chiên cho cháy vàng xong xịt xì dầu vào rồi ăn khi nó đang còn bốc khói. Tuy tôi chỉ được anh tôi cho ăn thử vài lần nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ đến món bột chiên đầy kỷ niệm đó. Nhưng thật tình mà nói, tôi khoái các món đồ chơi hơn là các món đồ ăn. Tôi nhớ là ở trước cổng trường có bán đủ thứ các loại đồ chơi hấp làm bằng nhựa như xe hơi, máy bay, lính hoặc mấy con thú nhựa. Tụi học trò tụi tôi mua mấy con thú bằng nhựa đó để chơi ném thú hoặc mỗ tường. Riêng cái làm tôi thích hơn cả là mấy cuốn sách vàng gồm đủ thứ truyện tranh như Xì Trum, Tí Hon Thần Lực, Phan Tân Sĩ Phú, Lucky Luke... Mỗi lần mua hay mượn được cuốn nào thì tôi đọc ngấu nghiến cho bằng hết mới thôi. Rồi còn trò chơi khắc gôm thì cũng rất phổ biến vào thời đó. Chơi trò này thì đòi hỏi phải thật kiên nhẫn. Việc trước tiên là phải in hình trong trang sách qua cục gôm bằng cách xoa dầu hôi lên cục gôm rồi ép chặt vô trang sách, sau đó thì lấy mũi dao lam nhọn để khắc theo hình in trên cục gôm xong rồi bôi mực lên để in ra giấy. Dường như bấy nhiêu thứ trò chơi cũng chưa đủ, tụi học trò còn bày ra cách nghịch phá bằng cách đọc trại tên truờng Lê Quý Đôn thành "Lũ Quỷ Đói, Lết Qua Đường" hay là giờ Pháp văn thì môn Vocabulaire được chế thành "Vỏ Cá Bự Lại Rẻ". Thời gian đó đối với tôi thật là sung sướng, không phải lo lắng gì cả chỉ lo ăn học rồi nghĩ đủ cách để chơi với đùa.

Rồi đến đầu tháng 4 năm 1975 lúc dinh Độc Lập bị bỏ bom thì cũng là lúc bọn học trò chúng tôi đang làm bài thi ở trong trường. Lúc đó tuy chưa tới 10 tuổi nhưng tôi vẫn còn nhớ rõ tiếng gầm rú khi chiếc máy bay phản lực bay ngang qua nóc trường và tiếng bom nổ làm rung chuyển bàn ghế trong lớp. Lúc đó tâm trạng của một đứa bé con như tôi tuy có mừng vì khỏi phải làm bài thi nhưng linh tính cũng cho tôi biết là có chuyện hệ trọng đang xảy ra. Rồi những năm tháng sau đó như một cơn lốc xoáy cuốn phăng đi mọi thứ mà tôi và gia đình tôi cũng phải trải qua như bao nhiêu gia đình khác lúc bấy giờ ở miền Nam. Sau năm 1975 thì có quy định là học sinh phải theo học ở những trường ở địa phương gần nơi đang cư trú. Nhà tôi ở quận Phú Nhuận nên khi lên lớp 6 tôi phải đổi qua một trường cấp 2 ở quận này. Như vậy là tôi chỉ được học tại trường Lê Quý Đôn từ năm 1971 đến 1976. Tuy chỉ 5 năm ngắn ngũi so với đời người nhưng những kỷ niệm tại ngôi trường này đã in sâu vào ký ức của tôi vì đó là những năm tháng hồn nhiên của tuổi thơ với những kỷ niệm đầu đời của một đứa trẻ mới lớn.
                                                                              Nguyễn Tuấn Phương (Australia)


Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

HÌNH ẢNH BẠN BÈ GỞI VỀ





Anh Biện Phước Lợi ngày hôm nay (hình đang đứng bên đường Lê Quý Đôn dãy Tiểu Học)


                                                    Reunion Lê Quý Đôn  tháng 1 năm 2009
Hình các thầy cô


Phước đang đứng cạnh Trâm Anh (bên phải) còn bên trái là ??

Đỗ Hùng Cường B.

Phương Dung và Nguyễn Anh Thư
                                                  Kim Hoàng (98) đứng gần phòng Giáo vụ

  Thầy Xuân, thầy Tam Nhiều và các học trò của mình ngồi ôn lại kỷ niệm trong một lớp học ở trường LQĐ

                  Thầy Xuân, thầy Tam Nhiều và các học trò của mình trong sân cổng chính trường LQĐ

                                     Đây là thầy ? (xin các bạn cho biết tên lâu quá tôi quên rồi)
             Tấn Khoa có ghé qua Saigon để thăm trường xưa và bạn bè cũ . Vẫn là quán ăn 174 NKKN.

Anh Phan Đình Nguyên , con của cô Nguyễn Khoa Diệu Anh dạy môn Anh Văn


Nguyễn Tấn Khoa ( promo 78 ) , VK Canada , bìa phải về giúp các soeur xây nhà nội trú , dạy nghề cho các em gái ở vùng Lạng Sơn
    Thầy Trần Quang Xuân dạy môn Sinh Vật, thầy Tam Nhiều dạy hội họa và bạn Nguyễn Anh Thư

             Bạn Phương Dung đứng trước ngôi nhà của mình. Phương Dung đã từng một thời là thần đồng   piano có chương trình biểu diễn ở trường Quốc gia Âm nhạc thời xưa.


Thầy Kiêm dạy môn tóan đứng thứ 5 hàng giữa ở trường Quốc học Huế năm 1963

Lớp 9/8 năm 1973 - 1974 với thầy Hy


Cảnh dẫn xe đạp ra cổng đường Trần Quý Cáp. Trong hình Thanh Liễu người dẫn đầu rồi Mai Hương  xong đến tôi còn người cuối cùng có thể là Tuấn Ngọc.

Thứ Hai, 4 tháng 2, 2013




Bản nhạc Un ami (một người bạn) do anh Vương Thiên Phước gởi cho tôi. Trong cuộc sống của chúng ta có nhiều người quen biết thường được gọi chung là bạn bè nhưng bạn thì rất ít nhung bè thì nhiều. Người bạn là người hiểu được tâm tư của ta và chia sẻ những may mắn lẫn bất hạnh của ta và ngược lại. Người bạn là người đồng hành với ta trong suốt quãng đời đến khi một trong hai người xa rời thế giới.

Chủ Nhật, 3 tháng 2, 2013

THIỆP CHÚC TẾT NĂM 1975

Đây là tấm thiệp chúc tết năm 1975 cũng là năm cuối cùng của lớp chúng tôi tại TTGD Lê Quý Đôn. Lúc đó, tôi có ý kiến là nên thiết kế một tấm thiệp cho riêng lớp và mọi người cùng đồng ý. Tôi dùng compa vẽ trên giấy stencil rồi dùng máy của trường in ra xong mọi người tô màu lên. Trên mỗi cánh hoa là tên một người tổng cộng là 15 người. Hình tấm thiệp dưới đây là do anh Đỗ Mạc Lô còn lưu giữ lại, riêng tôi thì đã còn nữa do bị mối ăn sạch khi còn để ở Sài Gòn. Tấm thiệp này coi như là vật kỷ niệm (vật chất) duy nhất ngoài những tấm hình chụp mà lớp chúng tôi còn lại.


Bài thơ dưới đây do thầy Kiêm cảm tác cho lớp 12B vào mùa xuân năm 1975. Bây giờ thầy không còn nữa, cầu mong hương hồn thầy về đây đọc lại những dòng kỷ niệm thầy dành cho chúng em.

Hương Phước Nhi vang mùi hiếu Thảo
Ngọc Hoa niên đượm sắc tứ Phương
Minh trí vui nhàn Sơn Liễu Điệp
Hồng chung hưởng Lợi vinh Quan(g)

Danh sách lớp:

Trương thị Diễm Hoa
Trần thị Thanh Liễu
Nguyễn thị Mai Hương
Trần thị Mộng Điệp
Nguyễn thị Thân Nhi
Nguyễn Phú Mỹ Phượng
Hồ Tuấn Ngọc
Nguyễn văn Thảo
Lê Phong Sơn
Biện Phước Lợi
Nguyễn Kim Sơn
Vương Thiên Phước
Đỗ Mạc Lô
Lê Quang Minh
Nguyễn Đăng Quan

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...