Thứ Tư, 2 tháng 10, 2019



16 biệt thự cũ tuyệt đẹp ở hai quận 1, 3 
cần được bảo vệ nguyên trạng


TTO - Có 16 ngôi biệt thự cũ trên địa bàn quận 1 và quận 3 (TP.HCM) được xếp vào nhóm 1 và đề xuất bảo tồn nguyên trạng.




Biệt thự số 216 Võ Thị Sáu, 1 trong 16 biệt thự được đề xuất phân loại nhóm 1 
- Ảnh: QUANG ĐỊNH



UBND TP.HCM vừa yêu cầu Viện Nghiên cứu phát triển TP lập tờ trình để phê duyệt kết quả phân loại một số biệt thự trên địa bàn TP.
Trong 86 biệt thự đã được Hội đồng phân loại biệt thự đánh giá và phân loại lần này, có 16 biệt thự được phân nhóm 1, tức nhóm các biệt thự được bảo tồn nguyên trạng.
Các biệt thự được đề xuất bảo tồn nguyên trạng gồm biệt thự số 60 Võ Văn Tần, số 110 -112 Võ Văn Tần, số 124 Cách Mạng Tháng 8, số 216 Võ Thị Sáu…
Các biệt thự thuộc nhóm 1 đều nằm trên địa bàn hai quận trung tâm TP là quận 1 và quận 3.


Một góc biệt thự số 110-112 Võ Văn Tần - Ảnh: TL


Danh sách còn có 17 biệt thự thuộc nhóm 3, được đề xuất tháo dỡ để xây dựng mới.
Có 49 biệt thự thuộc nhóm 2, tức được bảo tồn hình dáng bên ngoài. Viện Nghiên cứu phát triển TP đã tổng hợp được gần 900 biệt thự xây dựng trước năm 1975 trên địa bàn TP. Các biệt thự cũ phân bố nhiều nhất ở địa bàn quận 1, 3, 5, Thủ Đức.
Trong đó có 86 biệt thự đã có đầy đủ hồ sơ để thẩm định và phân loại như trên. Số biệt thự còn lại chưa đủ hồ sơ, thủ tục để phân loại và thẩm định.




TP HCM muốn bảo tồn hàng chục biệt thự cổ

 

Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố đề xuất bảo tồn nguyên trạng 16 biệt thự ở quận 1, 3, xây trước năm 1975 vì có giá trị về kiến trúc, nhà cổ.


Biệt thự số 110-112 Võ Văn Tần, quận 3. Ảnh: Sơn Hoà.


UBND TP HCM vừa yêu cầu Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố trong năm nay phải hoàn tất phân loại biệt thự cũ để có chính sách bảo tồn phù hợp.
Thống kê mới nhất cho thấy, thành phố có gần 900 biệt thự cũ trước năm 1975 được đề nghị phân loại từ các chủ sở hữu và cơ quan chức năng. Trong đó, 16 biệt thự cũ được xếp vào nhóm một (các biệt thự cũ có giá trị điển hình về kiến trúc, nhà cổ) được đề xuất bảo tồn nguyên trạng như: 113 Hai Bà Trưng, 170 Pasteur, 172 Pasteur, 3 Phùng Khắc Khoan, 7 Phùng Khắc Khoan (quận 1); 11 Ngô Thời Nhiệm, 60 Võ Văn Tần, 110-112 Võ Văn Tần, 124 Cách Mạng Tháng Tám, 33 Lê Quý Đôn (quận 3). 49 biệt thự khác được xếp vào nhóm 2 - biệt thự cũ có giá trị về nghệ thuật kiến trúc, lịch sử, văn hóa.
Những căn này do Hội đồng phân loại biệt thự thành phố xác định, lập danh sách và trình UBND TP HCM phê duyệt sẽ bảo tồn theo nguyên tắc giữ nguyên hình dáng kiến trúc bên ngoài, cấu trúc bên trong, mật độ xây dựng, số tầng, độ cao.
UBND TP HCM đã giao Sở Xây dựng quản lý chặt, ngăn chặn chủ đầu tư các biệt thự cũ tự ý phá dỡ, chia cắt trái pháp luật. Các quận huyện tiếp tục rà soát, phân loại, tránh tối đa việc bỏ sót biệt thự cũ.
Động thái này được TP HCM đưa ra trước tình trạng hàng trăm biệt thự cổ "biến mất" trong thời gian qua do chủ đầu tư tự ý tháo dỡ. Trước đây, thành phố từng có đến 1.300 căn biệt thự cổ tập trung ở quận 1 và 3, trên các đường Nguyễn Đình Chiểu, Lê Quý Đôn, Nguyễn Thị Minh Khai... Tuy nhiên, khảo sát trong thời gian gần đây cho thấy đường Nguyễn Đình Chiểu từng có 53 căn hiện chỉ còn 24, đường Hai Bà Trưng 40 căn giờ chỉ còn khoảng 20, đường Lê Quý Đôn và Mạc Đỉnh Chi nay chỉ còn 6 trong số 20 căn...
                                                        Lê Nam


Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2019

NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1591. Xe Traction đậu gần ngả tư Phan Đình Phùng - Đoàn Thị Điểm ngày xưa và giờ đây.




1592. ngả tư Công Lý - Yên Đổ ngày nào và hiện nay.



1593. Capital hotel BEQ ngày xưa giờ không còn.



1594. Hotel Astor góc Nguyễn Văn Thinh - Tụ Do ngày nào và giờ đây.



1595. Bộ chỉ huy US Navy Officer in Charge of Construction kế ngả ba Hai Bà Trưng - Tụ Đức ngày nào và giờ đây.



1596. Góc Nguyễn Huệ - Tôn Thất Thiệp cạnh Tòa Hòa Giải khi xưa và hiện nay.



1597. Phòng trà Tự Do ngày xưa và giờ đây.



1598. Đường Nguyễn Thiếp ngày xưa và nay.



1599.  Đại lộ Ngyễn Huệ gần thương xá  Tax gày xưa và nay.



1600.  Villa 60 Trần Quý Cáp nơi Westmoreland tùng ở ngày nào và nay.





Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo

Chủ Nhật, 15 tháng 9, 2019




Bài BẾN TẮM NGỰA của tác giả Minh Hương, từng là cán bộ nằm vùng của MTGPMN, gạt sang vấn đề chính trị, chúng ta xem sự mô tả về sự hình thành của địa danh này của tác giả. Xin nói thêm địa danh Xóm Lách của thời tôi ở chỉ bao gồm phần từ hẽm 134 (bót Đặng Văn Bắc) ra đến ngả tư Yên Đổ - Công Lý và ăn dài tới tận chủa Vĩnh Nghiêm, còn địa danh Bến Tắm Ngựa là trong phạm vi hẽm 150, 148, 146,144.




BẾN TẮM NGỰA

Minh Hương




Thành phð ta vốn là vùng nê địa. Có nơi, bước trên đất còn nghe bấp bênh dưới chân, nhứt là những láng thãp ven sông, gần rạch. Trước kia, nhiều con rạch chằng chịt đâm ngang xẻ dọc, thuyền bè tấp nập Iưu thông. Rồi những bến nước dần dần hình thành bên các cụm dân cư vừa tụ lai sát một bờ kênh.

Ngày nay, nhiều đường nước đä bị lấp mất vì dân cư Iấn chiếm ra mði ngày một ít, lấy đất để ở. Có đường nước vẫn còn đó, nhưng teo Iại, trông như một khe nhỏ, chåy Iờ đờ. Một sð địa danh mang tên 'bến" như một chứng cứ của thời quá khứ. Thành phð ta còn giữ được tới ngày nay hơn 40 địa danh có tiếng bến đứng đầu. Quận 1 có Bến Nghé, Bến Thành, Bến Trâu. Quận 3 có Bến Tắm ngựa. Quận 4 có Bến Nhà Rðng, Bến Súc và Bến Xúc. Quận 8: Bến Ðá. Nhà Bè: Bến Ngựa, Bến Sao. Phú Nhuận: Bến Cừ. Hóc Môn: Bến Cỏ, Bến Cát, Bến Nọc. Bến Nọc Nhỏ, Bến Phân. Bến Vua. Củ Chi có nhiều nhứt: Bến Cỏ, Bến Bà Thù, Bến Cây Me, Bến Dược, Bến Đình, Bến Đường Cát, Bến Hõm, Bến Mốp, Bến Thượng, Bến Nảy…Thủ Đức: Bến Bà Liêu, Bến Dốc, Bến Hồ, Bến Gỗ, Bến Đá, Bến Nọc. Bến Nọc Nhỏ. Quận 6: Bến Cây Dương. Bình Thạnh: Bến Đá, Bến Lội, Bến Lức…

 Bến Tắm Ngựa còn có tên Xóm Lách (thuộc quận 3), nàm trên đường Yên Ðổ (nay là đường Lý Chính Thắng). Ðường một chiều đi ra Hai Bà Trưng, bắt đầu giáp với Trần Quóc Thåo (Trương Minh Giảng), chạy xuống gần ngã tư Nam Kÿ Khởi Nghïa (xưa là Mac Mahon, Công Lý). Xóm chạy theo kênh Nhiêu Lộc giữa hai cây cầu: Lê Văn Sï (Trương Minh Giảng) và Nguyễn Vän Trổi (Công Lý). Xóm chạy từ mé Iộ được đắp cao, rnặt đất chạy thoai thoåi xuống mé kênh. Trước kia, nhà cất lưa thưa, phần đông vách phên, Iợp lá, một số ít vách ván, mái tôn. Còn nhà gạch mái ngói họa hoắn được đôi ba cän cất ngoài rnặt Iộ. Bến là một bãi rất rộng, thường có người từ đâu dẫn ngựa đến tắm, nên khu đất xung quanh được gọi chung là Bến Tắm Ngựa. Còn khoånh đất bên kia đường đã có một ít nhà Iầu, biệt thự cất lên hai bên ngôi đình Xuân Hòa. Nhưng đất trống còn nhiều, cỏ hoang và cây bụi mọc dày, än thông tới đường Trần Quðc Toån (Nguyễn Đình Chiểu) ngày nay. Ở chổ bây giờ là nhà hàng Dạ Lý Hương (Nha Quản Thủ Điền Địa) và một cư xá (Yên Đổ) khá rộng, trước kia chi lèo tèo ba bốn túp nhà lá. Ngựa tắm xong, được dẫn lên đấy Cho chúng nằm lån Iộn trên mặt đất rði än cỏ.

 Cuối những näm 1940, đường xuống bến còn thoáng lắm. Con kênh rộng như một dòng nước lớn. Nhà cửa chưa cất sát bãi cát rộng trên bến. Con nít trong xóm rủ nhau ra đây tắm, lặn Iội, đùa giởn thóa thích. Lính pháo thủ của một đơn vị pháo binh Pháp đóng ở Hòa Hưng thường đưa ngựa xuống bến tắm. Những con ngựa vạm vỡ, kéo đại bác, kéo xe chở đạn dược. Mấy chú nài thường dẫn ngựa đua đến tắm rồi dẫn đi vòng quanh trên các bãi cỏ gần đó, gọi là "quần ngựa". Ðến các chú xà ích cüng đua ngựa và đôi khi cå xe thổ rnộ, xe cá xuống đây để tắm ngựa và rửa luôn xe cộ. Xe thổ mộ (còn tên là xe "hộp quẹt), chỉ đóng một ngựa, thùng vuông, mui khum như mui ghe, chở được näm sáu khách chạy trên những tuyến đường đã được quy đinh. Tấm vè bằng gỗ, dài, to bån, gắn phía trên hai bánh xe gổ to như cái nia lớn, vành bịt sắt, dùng để máng đồ đạc của khách mang theo hoặc thúng, gióng, rổ, rá... Xe cá có hai loại: xe nhỏ hai bánh một ngựa; xe lớn bốn bánh hai ngựa. Xe không mui, thùng rộng và dài bång ván đóng hở. Ban đầu dùng để chở cá. Vê sau, chở các thứ hàng hóa cồng kềnh, đồ vật lỉnh kỉnh, nhứt là được thuê để chở bàn ghế, tủ giường, lu khạp khi dọn nhà...

Hể có bến là có dân tụ lại làm än, buôn bán, Bến Tắm Ngựa cũng vậy, gồm phần lớn nguồi lao động, từ nhiều địa bàn khác của đất nước trôi giạt đến, rồi dần dần hình thành một xóm đa dạng. Ða số là người miền Trung từ các tỉnh Quång Bình, Quång Narn, Quång Ngãi, Bình Ðịnh... Nhiều nhứt là đồng bào Quång Bình, phần đông vào trước näm 1945, một ít vào đợt näm 1954. Theo chân cha ông hay người làng vào Sài Gòn sống bằng hai nghề chính: thợ điện và chằm nón. Kế đến là đạp xích lô. Buổi đầu, nghề nghiêp chưa ổn định, mướn xích lô đạp sống qua ngày. Sau một thời gian, một số kiếm được việc làm khác đỡ vất vå: bốc vác, giúp việc nhà, buôn thúng bán bưng... Cuối xóm là xóm Nhà Đèn ( ) (Công ty Ðiện Iực) chạy dài lên đến cầu Nguyễn Vän Trỗi (Công Lý). Người dân Quång Bình còn ở råi rác hai bên đường Trần Quốc Thåo (Trương Minh Giảng), lên đến Vướn Mít, Vườn Xoài… Gần đây, khi qua cầu Lê Văn Sĩ (Trương Minh Giảng) và cầu Nguyễn Vän Trổi (Công Lý) vào rnùa khô, ta thấy lá buông, lá cọ phơi đầy hai bên vĩa hè, có khi tràn xuống cả lề đường. Có nhà đã vào đây từ ba đời. Có dịp tiếp xúc, ta tưởng họ gốc miên Nam, nghe họ nói giống như giọng người miền Nam (nói). Họ chuyển qua giọng miền Bắc, ta ngỡ họ là người Hà Nội. Nhưng khi họ "líu lo" với nhau bằng thứ tiếng tỉnh nhà, thì cüng phåi chiu thôi. Họ nói như chim hót. Vốn chịu khó, chịu cực giỏi, nên họ mau chóng thích nghi được với hoàn cånh. Nhiều nhà vào Nam đã lâu, làm än khấm khá, đứng ra thầu bắt hệ thống điện nhà cho các công trình và rnở tiệm bán đồ điện trên các đường lớn như Hai Bà Trung, Vö Thị Sáu (Hiền Vương), Pasteur, Phạm Ngũ Lão (quân 1).
          Nhóm dðng cư dân thứ hai là người Bắc. Phần đông vào trước nåm 1945 hay đầu nåm 1945 do tránh đói kinh khủng ở miền Bắc Ðặc biệt người cùng một làng. Chẳng hạn có nhóm người trước sống ở làng Phù Thụy, thuộc Phù Lý (Hà Nam). Phần lớn làm hồ (thợ xây, Phụ hồ, gánh đất, đá, gạch, đào móng, đào hố). Họ ở quanh quẩn gần nhau. Một số ít làm nghề mộc. Những ngày được đi làm it hơn những ngày không làm việc. Có việc họ gọi nhau„ thường làm chung ở một công trường. Cư dân các tinh khác làm nhiều nghề thợ mộc, thợ giày, thợ may, thợ hớt tóc, phụ nữ thì bán rau cải rong, hàng sáo... Ða số là những người chịu thương, chịu khó cả.
Ðầu năm 1947, vào thành hoạt động, tôi ở tạm nhà một người bạn mới cất gần mé nước. Một túp nhà lá đơn sơ. Phia sau nhà, ở cái chổ đất vừa đào lên để đắp nền nhà đã trở thành một cái vüng lớn, rồi chẳng bao lâu thành cái ao con. Mỗi ngày đêm cũng bốn Iần nước lớn nước nhò. Chung quanh còn lổm chổm những bụi ô rô, cóc kèn và xa xa vài gốc bần, rể đước. Mấy con cá thòi lòi leo lên các bụi gai, các gốc cây, bò lổn ngổn, giương cặp mắt lồi nhìn ngẩn ngơ. Có anh bạn, gốc người đồng chiêm, quen với cånh ngập nước, mua phên về, thỉnh thoång bao một khoånh nhỏ trên ao. Rồi đan một vuông lưới nhỏ, đánh bắt những con cá bống li ti và những con tép riu, nương theo con nước vào vũng kiếm ăn. Thinh thoång, cüng được một chén nhỏ vừa cá, vùa tép kho mặn.

Ðứng sau nhà, nhìn xa hơn qua bên kia giòng nước, thấy lác đác một ít cồn, ít gò có người gieo lúa, tỉa bắp. Những vuông rau muống xanh ri bập bềnh trên mặt nước. Có người đội nón đứng câu rê. Ðôi khi cũng giựt được con trê, con lóc, con rð. Nhiều cây sào cắm phân ranh từng khoånh. Cột vào sào chiếc thuyền nan nhð xíu hay chiếc thuyền thúng chập chờn, người ta dùng để di chuyển trên mặt nước để cắt rau muống. Những nåm cuối 1940, Xóm Lách (Bến Tắm Ngựa) nhà lá nhiều, nhà ngói rất ít, dần dần, nhà xây tường, mái tôn, rnái ngói nhiều lên, nhà vách phên hay vách ván ít lại.




          Ngày nay, thì nhà lầu san sát, nhà ngói chen chúc thi nhau mọc lên. Không chỉ có những người sinh ra, lớn lên và sống ở Sài Gòn, mà cå những ai, đä một lần sống Sài Gòn cüng sẳn lòng chia ngọt, xẻ bùi cùng Sài Gòn. Khoång thời gian 50 năm trở lại đây, thời gian tôi đã biết, đã nương náu nhiều đợt ở cái xóm lao động, bên kênh Nhiêu Lộc này, thì Bến Tắm Ngựa cüng đã từng có những người con của rnình ra đi giữ nước từ cuối näm 1945. Cüng có con em đã vïnh viễn nằm xuống trong các trận đánh không cân sức và ác liệt ở các cây cầu: Âyrôdêvet (Trương Minh Giång, Lê Văn Si), cầu Mac Mahon (Công Lý, Nguyễn Vän Trổi), cầu Kiệu (Hai Bà Trưng) và cầu Bông đã cầm chân giặc, không cho chúng ra ngoại ô... Rði tiếp theo trong nhữngnäm 1948, 1949, 1950 thành phố, những đợt chiến dịch chống Pháp nổi Iên rầm rộ với truyền đơn bươm bướm, với biểu ngữ giäng ngang qua đường cột trên hai ngọn cây, với cờ treo, với bè chuối (phương tiện cúng cô hồn và tống khứ quý ôn ra biền), cắm trên bè cờ xí và khẩu hiệu đả đảo bù nhìn và Bảo Ðại... cüng có mặt bà con Xóm Lách. Địch cûng biết trong khu Bến Tắm Ngựa có đặt nhiều trạm liên lạc, những hộp thư của cán bộ nội thành và cả cơ quan ấn loát bí mật... năm 1947, 1948, 1949, Pháp và bù nhìn mở Iiên tục những cuộc vây bắt và bố ráp quy mô lớn để tìm bắt cán bộ ta. Có lần chúng gom hết thanh niên, đày ra Vüng Tàu, giam cầm gần nửa năm. Những anh em cốt cán vẫn thoát ra trót lọt, vượt qua các ngả kênh rạch, đám rau muống và bèo lục bình, qua máy bụi bần, ô rô là đä an toàn đến được các xóm khác bên kia kênh.
 Rồi năm 1953, 1954... đồng bào Xóm Lách cüng xông xáo tham gia phong trào Bảo vệ hòa binh, đòi thi hành hiêp định Genève và đông đảo kéo đi cứu trợ và cất nhà lại cho các nạn nhân hỏa hoạn khu Nancy, Xóm Cũi... sau những trận đánh giữa Iính Bình Xuyên và quân đội Diệm, Nhu,
Chuyện về Xóm Lách chỉ đơn sơ có vậy.

(1) Phần đông dân cư ở đây đi làm Sở nhà đèn hay Nhà máy điện Chợ Quán.

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2019


Trường Thủ Dầu Một, Bình Dương là một trong ba trường nghệ thuật của xứ Nam Kỳ lúc bấy giờ (Trường nghệ thuật Biên Hòa và trường vẽ Gia Định). Tại các trường này đã cho ra đời những nghệ sĩ, nghệ nhân Nam Kỳ nổi tiếng trong đó có ông Thành Lễ là người sáng lập ra xưởng đồ gốm và sơn mài tại Bình Dương. Bài này được dịch lại theo nguyên văn của tờ LE MONDE COLONIAL ILLUSTRÉ NO 22 — JUILI.ET 1925.


TRƯỜNG NGHỆ THUẬT BẢN XỨ Ở NAM KỲ




Thủ Dầu Một, như lời của viên quan đầu tình vừa nói vừa cười, đó là “ vườn trái cây của Nam Kỳ” nằm cách Sài Gòn 30 km trước ngưỡng của khu rừng rậm của người Mọi.
Ở đây, không còn là chân trời rộng lớn của đồng bằng, sự vô tận của những cánh đồng lúa, nhưng phong cảnh đa dạng là những tán lá sẫm màu của cây xoài, hình bóng hùng vĩ của những cây đa hòa quyện với những tàu lá rộng của dừa và những tàu lá yếu ớt của cau.
Vùng lân cận của khu rừng lớn này luôn được ưa chuộng trong ngành gỗ trong nước: Xưởng sản xuất đồ nội thất Lái Thiêu rất được ưa chuộng ở Nam Kỳ.


Năm 1903, ông Ernest Outrey, là đại biểu của Nam Kỳ và sau đó là quan chức hành chánh của Thủ Dầu Một, đã quyết định thành lập một trường tại trung tâm sản xuất này để duy trì và phát triển nghệ thuật bản địa của Nam Kỳ.
Mục đích này rất rõ ràng: bảo tồn tất cả sự thuần khiết của nghệ thuật bản địa và cho phép các thợ thủ công người An Nam tương lai có được một sự hướng dẫn chuyên nghiệp vững chắc và đầy đủ hơn những gì họ có thể có được trong các xưởng mộc địa phương.
Kể từ đó, dưới sự chỉ đạo của Thống đốc Nam Kỳ, ông Cognacq, ngôi trường này đã nhận được một sức bật mới.
Trường có 60 học viên, được chia thành 4 khu riêng biệt: đóng tủ, điêu khắc. khảm gỗ và xà cừ và sơn mài.
Dưới sự quản lý của một kỹ thuật viên người Pháp, cùng sự hỗ trợ của các đốc công bản địa thông thạo kinh nghiệm.

Nguyên liệu đầu tiên: Các loại gỗ quý hiếm được sử dụng trong trường đến từ các khu bảo tồn rừng khổng lồ ở phía bắc của tỉnh.
Phải kể đến là gổ xẻ của cây giáng hương và bằng lăng cực kỳ hiếm. Cây trắc và cẩm lai có màu đỏ sẫm phơn phớt màu đen và tím, gỗ mun đến từ phía nam An Nam (Trung Kỳ).
Tất cả các loại gỗ này, trước khi được sử dụng, được ngâm trong nhiều tháng dài cho đến chúng không còn nhựa, được vận chuyển đến trường để được sử dụng. Công việc này được thực hiện bởi người bản địa và tuân theo các cách thức áp dụng trong nước.

Xưởng sản xuất tủ. Các học viên làm việc theo các bản phác thảo, theo mặt cắt ngang và mặt đứng cấu thành trong phần bản vẽ.
Thiết kế xưởng và cách làm việc mang đặc tính của địa phương. Học viên ngồi trên băng ghế thao tác bằng cách sử dụng chân và tay của họ.
Người An Nam rất tôn trọng truyền thống; anh ta không sẵn sàng thay đổi cách làm việc của mình. Ngoài ra, điều cần thiết là từ trường học, người thợ tương lai được đặt trong điều kiện làm việc mà sau đó sẽ tìm thấy trong các xưởng của một đất nước thường nghèo về dụng cụ.
Nhưng, sự nhượng bộ này được thực hiện cho phong tục địa phương, học viên buộc phải điều chỉnh các tác phẩm của mình theo các quy tắc chế tạo tủ hiện đại. Và đây là tiến bộ thực sự, bởi vì hiếm khi một công nhân bản địa có thể thực hiện được một lắp ráp chính xác.

Xưởng điêu khắc.  Các học viên làm việc dưới sự chỉ đạo của một bậc thầy đốc công bản địa.
Chính từ các bản phác thảo của các nhà họa sĩ của trường, các học viên thực hiện các tác phẩm được giao cho họ.
Phương pháp châu Âu đầu tiên là chuẩn bị một khuôn mẫu của chủ đề và làm thao tác theo vật mẫu của khuôn này. Quá trình này là đi ngược với thói quen của bản địa. Chúng tôi hoàn toàn dựa vào cảm hứng và kinh nghiệm của mọi người chứng minh rằng người bản địa có được kết quả nghệ thuật tốt nhất bằng cách làm việc theo ý của họ.
Các chủ đề được thiết lập theo truyền thống và tất cả đều có ý nghĩa tượng trưng. Số lượng của các chủ đề khá hạn chế, nhưng nhờ trí tưởng tượng phong phú và ý thức nghệ thuật bẩm sinh của các nghệ nhân trẻ, các chủ đề có thể biến đổi đến đa dạng. Những kết quả thành công nhất có được nhờ sự cách điệu của một số đặc tính và một số loài vật thần thoại như dơi, rồng, kỳ lân, phượng hoàng và rùa.

Xưởng xà cừ và cẩn xà cừ. Công việc cẩn xà cừ được người bản địa đánh giá rất cao.
Dù họ không có nơi ở, ít tiện nghi đến đâu, thì trong nhà cũng phải có một bàn thờ tổ tiên được cẩn xà cừ hoặc một tủ trà bên cạnh với các lễ vật được trang trí trang nhã với hoa hoặc phong cảnh với những đường nét đơn giản và hài hòa.
Rất hiếm khi, đặc biệt là ngày nay, ý nghĩa trang trí được rút ra từ các động vật đại diện.
Cẩn xà cừ chưa được biết nhiều ở xứ sở này và chính tại trường Thủ Dầu Một, chúng tôi cần phải giới thiệu loại nghệ thuật này cho toàn Nam Kỳ.
Học viên cũng đánh giá cao loại hình trang trí mới này và khách tham quan triển lãm nghệ thuật trang trí sẽ không thể không chú ý đến công việc cẩn hai cánh cửa tủ được thực hiện bởi xưởng mới này.

Xưởng sơn mài. Tác phẩm của sơn mài được đưa vào An Nam bởi những người Trung Hoa và cũng là những bậc thầy trong nghệ thuật tinh tế này.
Tại sao người An Nam, có khả năng thích ứng tuyệt vời, cũng sẽ thành công trong loại trang trí này?


Từ một năm nay, trường Thủ Dầu Một, đã tạo ra một xưởng sơn mài. Và ngày hôm nay đang trong tiến trình phát triển.
Và, trong vòng vài năm, chúng ta sẽ có được một đội ngũ hạt nhân đầu tiên của các nghệ nhân An Nam có thể cạnh tranh với các nghệ nhân sơn mài giỏi nhất Trung Quốc.
Nhưng, hơn nữa, trường rất muốn hoàn thiện các phương pháp truyền thống.
Đây là một công trình nhịp nhàng và hữu ích đã tạo ra được trong đế chế Viễn Đông của chúng ta.
Điều quan trọng là làm cho những công trình này được biết đến ở Pháp.




Thứ Năm, 22 tháng 8, 2019


NGÀY ẤY VÀ BÂY GIỜ


1581. Cái bồn nước không còn.


1582. Giao lộ Đồng Khánh/THĐB - Ngô Quyền xưa và nay.


1583. Góc Bà Huyện Thanh Quan - Phan Thanh Giản/ĐBP nhìn qua trường Gia Long/NTMK.


1584. Naval station hospital ngày xưa giờ là bệnh viện răng hàm mặt.


1585. Giao lộ Nguyễn Hoàng/TP - Đồng Khánh/THĐB xưa và nay.


1586. Ngả tư Yên Đỗ/LCT - Công Lý/NKKN xưa và nay.




1587.  Những cửa tiệm số từ 644 đến 650 đường Trần Hưng Đạo xưa và nay.


1588. Không còn một cây nào cả trên đường Cướng Để/TĐT.


1589. Ngả tư Đề Thám - Trần Hưng Đạo xưa và nay.


1590. Góc Hồng Thập Tự/NTMK -Cường Để/TĐT xưa và nay.



Nguồn Tim Doling, Paul Blizard, Trung Ngo


NHỮNG GHI CHÚ THÚ VỊ VỀ PHÚ NHUẬN.

Do có viết vài bài mang cảm xúc cá nhân về Phú Nhuận, thỉnh thoảng tôi được hỏi thêm về vùng đất này. Để chia sẻ tốt nhất có thể, xin đưa một bài trích từ cuốn sách nghiên cứu “300 năm Phú Nhuận” xuất bản năm 1988 tức 31 năm trước (*). Do chọn lọc theo góc nhìn riêng, tài liệu này không đầy đủ những điều cần biết về Phú Nhuận. Xin chia sẻ cho những ai quan tâm đến vùng đất này.
NHỮNG GHI CHÚ THÚ VỊ VỀ PHÚ NHUẬN
Tên Phú Nhuận được cho là có từ câu: “Phú nhuận ốc, Đức nhuận thân” (tạm hiểu là: giàu có làm đẹp con người, đức độ làm đẹp bản thân) trích trong sách Đại Học của Trung Hoa cổ.
Phú Nhuận đông dân lên từ khoảng 1850, do người đàng ngoài vào Nam lập nghiệp. Trong số đó có ông Lê Tự Tài từ miền Bắc vào và huy động bà con khẩn hoang lập ấp vùng cầu Kiệu. Đó là lý do chợ Phú Nhuận ngày nay từng có tên là chợ Xã Tài (ông Lê Tự Tài là xã trưởng khi Phú Nhuận được đặt thành xã).
Khu vực quanh cầu Kiệu là tụ điểm dân cư đầu tiên của Phú Nhuận rồi mới lan dần ra do dân từ lục tỉnh lên và người Hoa đến khai khẩn, làm rẫy trồng hoa màu, thuốc lá.
Cuối thế kỷ 19, khu sân Gôn ở phường 9 ngày nay là nơi trồng thử nghiệm 10 ngàn cây cao su và đây là vườn cao su đầu tiên trồng thí nghiệm quy mô lớn nhất Đông Dương.
Ngày xưa người dân gọi đường Phan Đăng Lưu ngày nay là đường Hàng Sao vì ở ven đường có những cây sao cao vút.
Cư dân Phú Nhuận được sách xưa của Pháp đề cao là có tài làm nghề thủ công như thêu, đan, cẩn, thợ bạc, chạm, nhuộm, đóng giày… Giới nhà thầu xây cất của cả thành phố thường đến Phú Nhuận tuyển thợ giỏi nghề thợ mộc, thợ sơn, hồ, gò, đúc, rèn…
Đến 1930, Phú Nhuận còn hoang vắng như miền quê, có cò trắng bay trên cánh đồng, có ao vũng để câu cá. Phú Nhuận nổi tiếng về cá lia thia (Chắc tại vậy mà ông cùi ở hồ Biểu Chánh phất lên nghề bán cá đá!). Đến khi sân bay Tân Sơn Nhứt được xây, Phú Nhuận đã thành vùng ngoại ô quan trọng và càng đông dân hơn.
Tại góc đường Hoàng Văn Thụ - Trần Huy Liệu (xưa là Võ Tánh - Trương Tấn Bửu) khoảng năm 1929-1933 là sân banh. Lúc đó phong trào đá banh rất sôi nổi nên sân dần nâng cấp được chọn làm nơi thi đấu giữa các đội hạng nhứt của Sài Gòn - Gia Định.
Đường Cô Giang ngày nay, xưa gọi là hẻm Đội Có. Thời Pháp thuộc, phía người Hoa có ông Hui Bon Hoa (Chú Hỏa) có nhiều nhà đất thì phía người Việt có ông Đội Có làm chủ nhiều nhà đất ở Phú Nhuận. Ông di lính Pháp, lên chức Đội. Khi chợ Phú Nhuận phát triển, đất hai bên đường từ cầu Kiệu đến ngã tư Phú Nhuận còn nhiều nơi bỏ trống, sình lầy, ông mua với giá rẻ, cất nhiều dãy phố, làm giàu vì là phố thương mãi. Phía trong hẻm gần chợ, ông mua nhiều miếng lớn, trong hẻm mang tên ông sau này. Ông còn mở dịch vụ xe khách với hãng “Bửu Hiệp” chạy tuyến Sài Gòn - Đà Lạt. Sau ông kinh doanh rạp hát, một rạp ở đầu cầu Kiệu bên Tân Định và rạp Cẩm Vân ở Phú Nhuận. Ông có lấy một người dì của nghệ sĩ Kim Cương làm vợ.
Phú Nhuận là nơi duy nhất ở miền Nam có thú tiêu khiển “cô đầu” du nhập từ miền Bắc từ năm 1934, tập trung ở ngã ba Lò Đúc (nay là Phan Đình Phùng – Nguyễn Trọng Tuyển tức Võ Di Nguy – Nguyễn Minh Chiếu trước 1975). Ngôi nhà tổ chức hát đầu tiên được gọi là “Nhà Bà Cụ”, không rõ cụ là ai. Khách đến chơi nghe hát cho vui rồi đi tìm “lạc thú” khác. Giá thời ấy khá cao, mỗi suất một phòng nghe đàn hát tốn 5 đến 10 đồng. Nhiều trọc phú phía Sài Gòn thuê đứt ba bốn phòng chiêu đãi thân hữu, bày rượu thịt ê hề, say sưa ồn ào.
Về các lăng miếu, ngoài lăng Trương Tấn Bửu ở đường Nguyễn Thị Huỳnh (Tự Đức cũ), có lăng Võ Tánh xưa nằm trong Tổng Tham mưu nên người dân không thể viếng, nay nằm trong quân khu 7, gần đài nước. Lăng thủy sư đô đốc Võ Di Nguy thời Nguyễn Ánh trên đường Phan Đình Phùng ngày nay.
Chùa Từ Vân ngày nay trên đường Phan Xích Long xưa gọi là chùa Bà Đầm có nguyên do: một công chức Pháp tên Barbanson lấy vợ Việt lai Hoa tên là Lý Thị Ly. Bà này sùng đạo Phật, bỏ tiền ra xây chùa. Bà là vợ ông Tây nên chùa bà xây gọi là Chùa Bà Đầm. Tư liệu không cho biết tên chính thức thời đó là gì. Bà mất năm 1942.
Nhà văn Sơn Nam nhận xét về người Phú Nhuận xưa: “Ở Phú Nhuận, rõ là nét tươi sáng của người Việt yêu đời sang trọng mà không xa hoa. Vui tươi hiếu khách mà không ồn ào. Nhạy bén trước thời cuộc, gắn với với lao động, dồi dào lòng yêu nước”.
CẦU VÀ ĐƯỜNG Ở PHÚ NHUẬN: (theo Khánh Giang):
Đầu thập niên 1920, những con đường ở Phú Nhuận được phân cấp từ Hương lộ đến đường Liên tỉnh. Thí dụ như đường Trần Kế Xương bây giờ là Hương lộ 22. Đoạn Phan Đình Phùng – Nguyễn Kiệm là Tỉnh lộ số 1 phụ. Đoạn Phan Đăng Lưu – Hoàng Văn Thụ là Tỉnh lộ số 1 kép... Cho đến thập niên 1940, ngoài các con đường có tên Pháp và một ít tên Việt, các con đường nhỏ vẫn còn mang tên số như:
Đường Nguyễn Kiệm là đường 17.
Đường Thích Quảng Đức là đường 19.
Đường Nguyễn Văn Đậu là đường 20.
Tuy vậy, người dân Phú Nhuận thích gọi theo tên đường theo cách thực tiễn tùy theo quang cảnh, nghề cư dân, chùa chiền...
Cầu Công Lý hồi xưa là cầu Mac Mahon lúc đầu xây sườn bằng sắt rất hẹp, lót ván nhỏ chỉ vừa một chiếc xe hơi nhỏ. Bên này cầu phía Phú Nhuận là con đường đá xanh, đất đỏ... chỉ đi vài bước là tới ruộng. Từ nội thành Sài gòn ra sân bay Tân Sơn Nhứt không đi qua cầu này được mà phải vòng qua cầu Kiệu hay cầu Bông, đi theo đường Hoàng Văn Thụ (Võ Tánh cũ) ra sân bay. Thập niên 1940, ven đường có nhũng biệt thư xây cất cầu kỳ theo lối Pháp, vài nhà có mái nhọn độc đáo kiểu ở xứ lạnh. Lúc đó đã có cư xá Đỗ Hữu Vị (thuộc phường 12, không rõ bây giờ là ở đâu). Cầu Mac Mahon lúc này đã có xi măng tráng nhựa, hai bên có lối hẹp dành cho người đi bộ. Cuối thập niên 1950 được đúc, nới rộng ra, phóng dài, hai bên có lối dành cho xe máy. Ven đường, ngoài các biệt thự là các dãy phố nhà mái thấp chen giữa các rẫy rau, tưới bằng nước giếng “cần vọt”. Phía bên cuối đường có nghĩa địa nhỏ khỏang chục ngôi mộ.
Đường Phan Đình Phùng: xưa là Tỉnh lộ số 1 phụ (cuối thế kỷ 19) - Paul Blanchy nối dài (1902) - Louis Berland (thập niên 1930) - Võ Di Nguy (1954-1985). Từ 1935-1936 trên đoạn Hai Bà Trưng chạy ngang cầu Kiệu đến ngã tư Phú Nhuận có đường xe điện, dừng ở chợ Tân Định và chợ Xã Tài (chợ Phú Nhuận) và chỉ hai năm thì ngưng. Cầu Kiệu lúc đầu tên là cầu Chợ Mới, dựng bằng cây vắp và ván trai. Đầu thế kỷ 20 mới làm sườn sắt, Pháp đặt tên là cầu Paul Blanchy nhưng vì khó gọi nên dân vẫn gọi là cầu Kiệu. Tài liệu có nhắc đến chùa Quan Thánh thờ Quan Công ở phường 17 của người Triều Châu nằm trên đường này. Họ là nhóm người Tiều trồng cải, kiệu dọc theo hai bên cầu nên người dân mới gọi là cầu Xóm Kiệu rồi dần thành cầu Kiệu. Sau nhóm người này dời về miệt Bình Thới nên giao việc quản lý chùa cho Hội Phú Hữu, nên gọi là đền Phú Hữu. Sau thành garage xe hơi (Phải chăng đây là “đình ông Cọp” giờ là Nhà sách FAHASA Phú Nhuận?)
Đường Nguyễn Kiệm: xưa là đường đất đỏ, đủ cho hai xe thổ mộ tránh nhau. Ven đường có trồng tre, chuối, rải rác vài căn nhà không ra cái xóm. Từ ngã tư Phú Nhuận đi lên Gò Vấp đi ngang xóm Vườn Mít, trồng mít ăn trái và lấy hột xay làm bột. Vườn Mít chỉ phỏng đoán nằm ở phường 9,3 và 5, đã mất dấu vết. Giữa thập niên 1940 quanh chợ Nguyễn Đình Chiểu bây giờ là vườn hoa hồng. Nhị tỳ Nước Hẹ nằm cạnh cổng xe lửa số 10, đây là một trong những nhị tỳ (nghĩa trang) xưa nhất Phú Nhuận từ cuối thế kỷ 19, nay không còn.
Đường Hòang Văn Thụ: Có công binh xưởng I-wai của Nhật, nay là Nhà thiếu nhi Phú Nhuận (trước năm 1961 gia đình tôi ở trong cái xóm I-wai gần đó, có nhiều cây cối um tùm).
Đường Nguyễn Văn TrỗI: Trước năm 1932, đường này còn nhỏ bé, nhà cửa thưa thớt với rẫy trồng rau cải. Nhờ có sân bay mà đường nâng cấp lên, lần hồi thành sang trọng. Giới tư sản lớn ở Sài Gòn có nhà, tiệm buôn ở trung tâm thành phố đến chiều tối mới về biệt thự ở Phú Nhuận để tĩnh dưỡng hoặc cuối tuần để ăn uống với bạn bè. Phía sau các biệt thự là bãi đất trống. Từ cầu Công Lý đi thẳng đến công viên Chiến Thắng, giáp đường Hoàng Văn Thụ là “mũi tàu” (có cây xăng), khoảng thập niên 1940 có một cây xoài cổ thụ hai gốc nên gọi là cây xoài đôi. Dọc đường có: Trường tiểu học Nguyễn Đình Chính là trường duy nhất của thành phố được viện trợ của ngân hàng Hồi giáo Thế giới giúp xây dựng năm 1983 (sau, nếu nhớ không lầm là mở rộng hơn bằng cách nhập thêm Nhà hát Phú Nhuận kế bên. Nhà hát này trước 1975 là bãi đất trống huấn luyện quân khuyển). Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận xưa là trụ sở Đảng Hắc Long của Nhật từ 1941-1945. Thánh đường Hồi giáo bên kia đường do giáo cả Mơ-Li xây năm 1969. Nhà văn hóa Phú Nhuận hiện giờ trước kia là câu lạc bộ báo chí của Mỹ. Xóm Mô phía phường 8 có nhiều mô đất và hầm của Nhật đào từ 1941-1945 để tránh bom quân đồng minh. Đầu đường Nguyễn Văn Trỗi ở công viên Chiến Thắng bây giờ, xưa là xóm Sỏi Cơm (đất phủ một lớp sạn nhỏ) là xóm nghèo dân phần lớn làm trong sân bay Tân Sơn Nhứt. Xóm năm giữa một đồng cỏ rộng, nay là sân banh quân khu 7.
Đường Huỳnh Văn Bánh: từng có tên là đường Chùa Phật (vì có chùa cổ Phú Long Tự), rồi đường Chùa Ông (vì có chùa Quan Thánh đế thờ Quan Công), rồi đường Lò Rèn vì tập trung nhiều lò rèn móng ngựa. Đó là các tên không chính thức. Năm 1954 là đường Nguyễn Hùynh Đức, đổi thành tên Huỳnh Văn Bánh từ 1985. Thập niên 1940 là đường mòn hẹp, gồ ghề, nhà vắng, dắt xe đạp đi cũng khó. Đầu thập niên 1950 đường đắp đất, đôn cao, xe ngựa xe bò ọc ạch đi qua. Ven đường, trước chùa Cây Sai (chùa Phú Thạnh bây giờ) là nghĩa địa không người trông coi, cỏ dại lấp mồ mả, dân chúng đem rác đến đổ. Sau mới tráng nhựa từng đoạn, nhà phố phát triển mạnh từ 1965. Cư xá Kiến Thiết ở phường 14 xây năm 1960 trên đất ruộng gồm hai khu: Ngói Trắng trên đường Huỳnh Văn Bánh và Ngói Đỏ trên đường Đặng Văn Ngữ, xây sau nên khang trang hơn.
Đường Trần Huy Liệu: từng là đường Capitaien Faucon (thập niên 1940), Trương Tấn Bửu (1954) rồi Trần Huy Liệu (1985). Nhà thờ Phú Nhuận góc đường Hoàng Văn Thụ - Trần Huy Liệu do vị linh mục tên Đại xây 1942, là nhà thờ đầu tiên của giáo xứ Phú Nhuận, còn gọi là “nhà thờ Nam” để phân biệt với các “Nhà thờ Bắc” của người di cư sau 1954.
Đường Lê Văn Sĩ: xưa là Eryaud des Vergnes (thập niên 1940), Trương Minh Ký (1945) Nguyễn Văn Trỗi (1975) rồi Lê Văn Sĩ (từ 1985). Đi ngang xóm Vườn Xoài (phường 13) có từ thế kỷ 19, có vườn xoài rộng lớn ăn ra tới Lăng Cha Cả. Khu này người Pháp lập nhà nghỉ mát, cấm người Việt léo hánh đến. Sau năm 1954 là nơi quy tụ của giáo dân xứ Bùi Phát. Vườn Xoài chỉ còn dấu tích tên gọi, nhà thờ Vườn Xoài. Còn nhà thờ Đa Minh, tức nhà thờ Ba Chuông thì năm 1954 là kho xăng dầu của quân đội Anh – Ấn và bị Việt Minh đốt cháy.
Đường Cô Giang: hẻm Đội Có (như đã đề cập phía trên). Trên đường có mộ Võ Di Nguy xây đầu thế kỷ 19 bề thế và hoa mỹ. Trên đường có Giếng Nước đất Phán Hùng (phường 2) cạnh nghĩa địa Hai Ngàn (đã giải toả), thời sau 1945 là nơi xử tử lính thực dân Pháp bằng cách quăng xuống giếng. Có cầu Cụt, một cây cầu ngắn nên khu đó gọi là xóm Cầu Cụt. Có xóm Bắc của người miền Bắc vào giữa thập niên 1940 và năm 1954, phần đông theo đạo Phật, dựng đền chùa theo kiểu Bắc như chùa Hải Đức (1947), đền Hùng Vương (1961)...
Đường Nguyễn Đình Chiểu: lúc đầu là hẻm Lê Văn Bền (1940-1950), Nguyễn Đình Chiểu (từ 1975). Chợ nhỏ Nguyễn Đình Chiểu sau này bắt đầu nhóm khi chợ Phú Nhuận bị đốt ngày Nam bộ kháng chiến. Lúc đầu là chợ chồm hổm, sau dời vào trong hẻm với hai dãy phố.
Đường Trần Hữu Trang: là đường Thiệu Trị (1954) rồi Trần Hữu Trang (từ 1985). Chợ Mới ở đây xây 1984 trên nền cũ nghĩa địa Phong thần (có hầm Phong thần bằng đá chứa hài cốt)
Đường Đòan Thị Điểm: từng gọi là hẻm Chu Mạnh Trinh (từ giữa thập niên 1950, do có trường tư thục Chu Mạnh Trinh). Cuối đường là khuôn viên dinh tỉnh trưởng Tân Bình, có bãi cỏ rộng. Sau là bệnh viện tư của bác sĩ Hồ Văn Nhựt. Chủ đất là ông Cafford, có cửa hàng bán súng săn ở Sài Gòn nên tòa nhà này gọi là “nhà lầu Cafford”, sau bán đất lại cho Địa ốc Ngân hàng (Crédit Foncier) gọi là “đất nhà băng”. Toà nhà bị đốt năm 1945.
Đường Trần Kế Xương: từng là Hương lộ 22 (1930-1940), Trần Kế Xương (từ 1954, đúng ra là Trần Tế Xương - nhà thơ)
Đường Phan Tây Hồ: từ 1945-1946 đường này được gọi là “đường Âm phủ” vì vẻ u ám, hoang vắng, là nơi Việt Minh xử tử lính Tây. Phía nam là xóm Mả Đen với một nhóm mộ cổ còn lại từ 1863, bằng ô dước ngã màu đen, tương truyền chôn người Khơ-me đã từng định cư ở đây từ thế kỷ 18.
Đường Hải Nam: có tên từ năm 1954, do có một nhóm người Hoa gốc Hải Nam sinh sống lâu đời ở Phú Nhuận có khu nghĩa địa nằm cạnh đường này (nay đã giải tỏa).
                                                                    Phạm Công Luận

    https://trithucvn.net

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...