Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

Đây là bài về thân thế và sự nghiệp của thầy Trần Anh Linh dạy nhạc trường chúng ta. Thầy cũng là người sáng lập ra thiếu đòan Lê Quý Đôn thuộc đạo Thủ đô. Hồi xưa tôi và anh Lê Phong Sơn có theo học thầy về sáng tác và hòa âm, lúc đó thầy ở đường Hồ Biểu Chánh đọan tận cùng trước khi trổ ra nhà thờ Vườn Xòai. Nay thầy không còn nữa, tôi post bài này lên trang blog cho các bạn một thời là học trò của thầy đọc và biết thân thế của thầy.


Nhạc sĩ Phaolô Trần Anh Linh

*Trần Vinh & Nguyễn Long Thao
Nhạc sĩ Trần Anh Linh đã qua đời tại Việt Nam vào ngày 14.4.2006, nhân chuyến về thăm quê hương. Ngày ông qua đời đúng vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh.
Thời điểm Tuần Thánh có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự nghiệp sáng tác của cố nhạc sĩ Trần Anh Linh. Chính trong Tuần Thánh cách đây trên 50 năm, ông đã sáng tác ca khúc Niềm Tâm Sự, cảm hứng từ Phúc Âm Thánh Gioan mô tả những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi đi nộp mình chịu tử nạn, và bài thứ hai Chúa Ở Lại Thôi, cảm hứng từ câu Mane Nobiscum Domine, câu khẩn nài của 2 môn đệ trên đường Emmau.
Mãi mãi về sau, người ta sẽ còn biết đến tên tuổi nhạc sĩ Trần Anh Linh là tác giả của 2 bài Thánh ca kể trên. Với cung bậc tha thiết, lại chất chứa tâm tình thâm trầm, sâu sắc, 2 bài Thánh ca này là những lời cầu nguyện hết sức tốt đẹp để suy tôn ý nghĩa căn bản của Mùa Khổ Nạn và Phục Sinh trong niên lịch phụng vụ


1.      Thân thế nhạc sĩ Trần Anh Linh
     Nhạc sĩ Trần Anh Linh sinh ngày 15-3-1932 tại làng Vân Đình, Hà Đông. Những ngày thơ ấu, ông sinh sống tại Hà Nội. Năm 6 tuổi, ông theo cha mẹ vào Sàigòn. Năm 11 tuổi, lại từ Sàigòn về Phát Diệm và được tuyển chọn vào học tại Tiểu Chủng viện Phúc Nhạc, trong thời giantừ năm 1944 đến 1952. Sau khi mãn trường Tiểu Chủng viện, Trần Anh Linh đi thực tập ở Trường Dòng Khiết Tâm (hậu thân của Trường Các Thầy Giảng) từ 1952-1954.
     Năm 1954, di cư vào Sàigòn, Trần Anh Linh nhập học tại Đại Chủng viện Xuân Bích (Saint Sulpice), lúc ấy tạm cư ngụ tại Vĩnh Long. Đến năm 1957 thì chuyển về Đại Chủng viện Lê Bảo Tịnh ở Gia Định. Học được một năm Thần Học thì bị bệnh rồi từ giã chủng viện ra hoạt động tông đồ nơi các xứ đạo: Phú Nhuận, Lăng Cha Cả, Xóm Thuốc. Từ 1958, vào nội trú trong câu lạc bộ Phục Hưng và theo học Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Năm sau, chuyển qua cư xá Đắc Lộ Dòng Tên cho đến năm 1961 tốt nghiệp Đại học Văn Khoa với cấp bằng Cử Nhân Văn Chương Việt Hán. Sau đó, đi dậy Việt văn tại Trung học Châu Văn Tiếp, Bà Rịa. Năm 1962, Trần Anh Linh xin trở lại đời tu, được tiếp nhận vào dòng Chúa Thánh Linh do cha Gioan Phạm Kim Xuyến sáng lập và được Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình nhận cho vào học trong Giáo Hoàng Học Viện Piô X, Đà Lạt. Nhưng do bệnh cũ tái phát, ông đành phải bỏ hẳn ý định đi tu, sau 2 năm theo học tại đây.
     Trở lại cuộc đời nhà giáo, Trần Anh Linh xuống Vĩnh Long dậy Việt văn tại trường Trung Học Tống Phước Hiệp từ năm 1962 tới năm 1964. Sau đó, ông xin chuyển qua dậy Việt văn và ca hát cho giáo sinh Trường Sư Phạm Vĩnh Long. Năm 1967, được Bộ Giáo Dục cử đi tu nghiệp tại Hoa Kỳ về môn Âm Nhạc Giáo Dục ( Music Education). Năm 1970, ông tốt nghiệp Master of  Music tại Đại học Miami; sau đó ở lại học thêm 2 mùa nữa để hoàn thành luận án về The Pentatonic Music ( Nhạc ngũ cung). Năm 1971, ông về Sài Gòn dậy âm nhạc tại trường Quốc Gia Âm Nhạc, đặc trách ngành Sư phạm Âm nhạc, đào tạo các giáo viên âm nhạc cho hệ Trung Học Đệ I Cấp, dậy Việt văn và Âm nhạc tại trường Trung Học Lê Qúy Đôn. Rồi ông cộng tác với Lm. Tiến Dũng dậyÂm nhạc cho Đại Học Minh Đức, Phân khoa Âm nhạc.  Ông cũng dậy Âm nhạc mẫu giáo cho các Giáo sinh Vườn Trẻ của trường Jardin d’Enfant và dậy Âm nhạc cho Trường Sư Phạm Sàigòn. Có một thời ông hợp tác với nhạc sĩ Hùng Lân biên soạn cho chương trình Gió Khơi do bác sĩ Bùi Duy Tâm chỉ đạo.
     
Nhạc sĩ Trần Anh Linh lập gia đình và có 4 con trai.
    Sau 30.4.1975, nhạc sĩ Trần Anh Linh lui về sống ẩn dật. Mãi tới năm 1982, ông mới cùng Nhạc trưởng Quân nhạc Trần Văn Huyến, mở lớp ca trưởng cho thanh niên nam nữ xứ đạo Bà Chiểu, Gia Định và hợp tác với linh mục phó xứ Nguyễn Hữu Triết soạn tập ca Giờ Kinh Phụng Vụ để phục hồi Thánh Nhạc theo truyền thống Giáo hội qua thông điệp Musica Sacra.  Lm. Nguyễn Hữu Triết, cha phó của giáo xứ Bà Chiểu, Gia Định, vừa là một nhạc sĩ, vừa là một nhà sưu tầm sách cổ và đồ cổ có hạng. Sau này ông được cử làm linh mục chánh xứ Tân Sa Châu, Tân Bình.
  Năm 1985, Trần Anh Linh vượt biên qua Mỹ, hợp tác với nhạc sĩ Lê Văn Khoa và nhạc sĩ Trần Chúc, thành lập ban hợp xướng Ngàn Khơi và hợp tác với nhạc sĩ Nguyễn Văn Châu, nhạc sĩ dân tộc, thành lập ban Lạc Hồng.  Sau đó, nhạc sĩ Trần Anh Linh rời tiểu bang California qua sống tại Louisville, tiểu bang Kentucky, dậy dương cầm cho thiếu nhi và dậy Anh văn (ESL) cho học sinh thiểu số Việt, Lào, Campuchia.

     2. Sự nghiệp sáng tác của nhạc sĩ Trần Anh Linh
   Nhạc sĩ Trần Anh Linh đã sáng tác liên tục từ những ngày còn ở Tiểu Chủng viện, Đại Chủng viện, trong những tháng ngày đi dậy học và hợp tác với các ban nhạc.
Từ nhỏ, Trần Anh Linh đã thích Âm nhạc, nhưng vì nhà không đủ khả năng cho nên chỉ đứng xem trẻ con hàng xóm học dương cầm và vĩ cầm. Ông tự tay chế ra chiếc “dương cầm” với các phím vẽ trên tấm bìa cuộn súc vải của mẹ. Còn vĩ cầm thì chỉ là một thanh tre, tay trái cầm lấy thanh tre, dùng các ngón tay bấm trên đó, tay phải giả đò cầm cây mã vĩ, và cũng nghẹo cổ cò cưa, bắt chước mấy bạn học vĩ cầm.
 Từ ngày nhập Tiểu Chủng viện, khả năng về nhạc lý và ca hát của Trần Anh Linh phát triển rất nhanh. Một mình luyện giọng qua cách xướng âm theo thang âm Do Re Mi, học nhạc lý qua cách quan sát, trên những bài Thánh Ca, nhất là Thánh Ca trong quyển Cantiques de la Jeunesse bằng tiếng Pháp, thịnh hành vào những năm 1944 -1946.
Đến năm 1947, Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh ra đời do các nhạc sĩ Hùng Lân, Tâm Bảo, Thiên Phụng khởi xướng qua 2 quyển Cung Thánh Tập I và II. Trần Anh Linh được học hỏi rất nhiều về kỹ thuật sáng tác từ những những tuyển tập này, và có thể nói, những vị thầy đã dậy Trần Anh Linh kỹ thuật sáng tác, chính là các tuyển tập Thánh Ca này.
 Năm 1948, nhạc sĩ Phương Linh, tức linh mục Rôcô Trần Hữu Linh về dậy ở Tiểu Chủng viện Phúc Nhạc, đã khích lệ Trần Anh Linh sáng tác. Ca khúc đầu tiên của Trần Anh Linh là bài dựa trên lời thơ “Ave Maria” của Hàn Mặc Tử:
 Maria, linh hồn tôi ớn lạnh
 Run như run thần tử thấy long nhan
 Run như run, hơi thở chạm tơ vàng
 Nhưng lòng vẫn thấm nhuần ơn trìu mến.
 
Đây là đề thi nhạc của năm Trần Anh Linh học lớp Tư tại Tiểu Chủng viện Phúc Nhạc. Bài ca đã hình thành rất mau lẹ, chỉ trong vòng thời gian ½ giờ. Bài ca viết trên cung Rê thứ, vỏn vẹn chỉ có 4 câu nên chưa gọi được là một bài ca nên không bao giờ được đem ra phổ biến.
 Sau đó, Trần Anh Linh cảm thầy phấn khởi và tiếp tục sáng tác, nhưng không may, năm sau bị bệnh nặng, cha Bề trên sợ có hại sức khoẻ cho việc học văn hóa nên cấm không cho học đàn, học nhạc. Bẵng đi mấy năm, Trần Anh Linh định gác bỏ ca nhạc qua một bên để lo học thi Tú tài. Phải mãi đến khi về học Triết học năm  thứ nhất ở Đại Chủng viện Xuân Bích, nhờ các bạn cùng lớp khích lệ, nhất là nhạc sĩ Vinh Hạnh, Trần Anh Linh mới sáng tác trở lại. Bài đầu tiên trong dịp này chính là bài Niềm Tâm Sự, cảm hứng từ Phúc Âm Thánh Gioan mô tả những lời tâm sự của Chúa Giêsu với các môn đệ trước khi đi nộp mình chịu tử nạn. Bài này viết theo nhịp 6/8 (nhịp kép) có nhiều chùm 3 nốt móc thành ra khó hát cho đúng nhịp. Đã có lúc Trần Anh Linh định sửa lại thành nhịp 4/4 cho phổ thông hơn ,nhưng trót đã in trong tập Hương Thánh Kinh của Vinh Hạnh rồi, nên lại thôi.
 Nhạc tố đầu tiên của bài này gồm 4 nốt Re La Si La rồi được đối lại Re Sol La Sol. Nốt Si khó hát trong bài Re thứ vì vậy đa số giáo dân không giữ đúng, thường hát thành Si (b), nghe không được tươi sáng. Bài hát viết ra cho đại chúng hát, thành ra đôi khi phải chiều theo ý của đại chúng. Bài thành công nhờ ý tứ thâm trầm, nhạc điệu bình dị, cảm súc rất thích hợp trong các giờ chầu Thánh Thể và Thứ Năm Tuần Lễ Thánh.
Có lẽ từ nhiều năm qua, người ta chỉ biết Trần Anh Linh qua bài Niềm Tâm Sự này thôi. Thực ra, cuộc đời một người nhạc sĩ chỉ cần một bài được phổ biến rộng rãi, coi như đã được an ủi rồi. Đồng thời với bài Niềm Tâm Sự, Trần Anh Linh sáng tác thêm bài Chúa Ở Lại Thôi, cảm hứng từ câu Mane Nobiscum Domine, câu khẩn nài của 2 môn đệ trên đường Emmau. Bài này cũng in trong tập Hương Thánh Kinh I của Vinh Hạnh. Về sau, vì sự sao chép lại, có người đã lầm tưởng bài này của Vinh Hạnh. Bài này không được phổ thông, ít người hát, mặc dù nhạc tứ rất uyển chuyển, dồi dào.
 Trong thời gian ở Đại Chủng viện Xuân Bích, Trần Anh Linh còn sáng tác một số bài khác, có gửi in vào các Cung Thánh của nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh, nhưng vì là lính mới tò te nên nhạc sĩ Hùng Lân chỉ chọn in vài bài, như Bên Máng Cỏ, Kinh Catena của Đạo Binh, còn đa số không đạt tiêu chuẩn. Tất cả các bản thảo giao hết cho Hùng Lân, nay không còn gì và cũng quên đi hầu hết.
 Sau này, nhạc sĩ Trần Anh Linh chuyển hướng sáng tác theo bình ca, lấy các Thánh Vịnh làm đề tài. Cũng có bài sáng tác theo thang âm ngũ cung. Những bài ca Thánh Vịnh này đã từng được hát trên đài Radio Veritas ở Manila do các ca viên của trại Bataan trong thời kỳ Trần Anh Linh vượt biên và lưu lại ở trại này 6 tháng. Số lượng các Thánh Vịnh được phổ nhạc cũng vài chục bài nhưng chưa bao giờ cho ấn hành.
Thời kỳ sáng tác Thánh Ca nhiều nhất là thời kỳ ẩn thân bên nhà thờ Bà Chiểu, Gia Định, cùng với bộ ba Triết, Huyến, Linh soạn thảo cả một vòng năm phụng vụ từ Mùa Vọng – Giáng Sinh – Mùa Chay - Tuần Lễ Thánh - Phục Sinh – và quanh năm. Tất cả 52 Chúa Nhật đều có đủ 4 bài: Ca Nhập Lễ, Đáp Ca, Dâng lễ và Hiệp Lễ. Khi hoàn thành, Trần Anh Linh và Trần Văn Huyến đã trao hết cho Lm. Nguyễn Hữu Triết để tiến hành ấn loát, nhưng tiếc rằng công trình này đã bị đem ra mổ xẻ thêm bớt. Một số nhạc sĩ đến sau, nhưng có quyền thế hơn, đã làm tiêu tan công trình của bộ ba nói trên. Những bài sáng tác trong dịp này cốt ý đề cao tinh thần phụng vụ thánh hóa đời sống đạo bằng âm nhạc như thông điệp Musica Sacra của Đức Pio X đã khuyến cáo. Những bài này vẫn còn ở Việt Nam.
Sau khi định cư ở Mỹ, nhạc sĩ Trần Anh Linh sáng tác những bài Thánh ca dựa trên nguồn hứng của sách Tình Yêu Nhân Hậu Gửi Các Hồn Nhỏ. Tiếc rằng phong trào Hồn Nhỏ chỉ hạn hẹp trong một nhóm người có lòng yêu mến Chúa Giêsu nên những bài ca này không được phổ biến rộng rãi. Vả lại, tư tưởng trong sách Tình Yêu Nhân Hậu hãy còn xa lạ với đa số giáo dân, chẳng hạn bài Đừng Sợ Tử Thần: Chúa dậy ta hãy can đảm đối diện với tử thần, vì nhờ nó mà ta được bước vào cõi hằng sống. Bài Đừng Có Tiếc: Chúa an ủi những người không thể đạt tới con đường tu trì tại các tu viện, chủng viện vì ở bất cứ nơi nào, với ơn Chúa, chúng ta cũng có thể nên thánh. Càng ở trong đấng bậc thấp hèn, càng dễ nên thánh. Bài Con Đường Nên Thánh: Chúa tâm sự với các tâm hồn bé nhỏ hãy tìm kiếm Chúa trong nội tâm mình chứ không phải ở bên ngoài. Yếu tố căn bản của việc nên thánh là lòng khiêm cung, tự hạ, chấp nhận sự khổ nhục. Những loạt bài này này cũng cũng chưa được xuất bản.
 Ngoài ra, còn một số bài viết về cách dậy giáo lý cho trẻ em, đã thực hiện thành băng cassette, nhưng rất đơn sơ, cần phải được thực hiện lại. Mỗi khi có dịp lễ đặc biệt thì nhạc sĩ Trần Anh Linh lại dành ít phút để sáng tác một bài. Gần đây nhất, vì hợp tác với Hilltop Recorder trong chương trình Thánh Ca The Light Of The World, nên nhạc sĩ Trần Anh Linh bắt đầu sáng tác những ca khúc bằng 3 thứ tiếng: La-tinh, Anh ngữ, Việt ngữ.  Ông hợp tác với nhạc sĩ Võ Hữu Hạnh để đặt lời Anh, lời Việt, hoà âm cho các Thánh Ca của anh. Nhạc của Võ Hữu Hạnh có 2 bài được chọn để thực hiện thành CD và phổ biến trên toàn nước Mỹ. Đó là các bài Salve Regina và Te Deum. Nhạc sĩ Trần Anh Linh cũng sáng tác 2 bài: Dona Nobis Pacem (Grant Us Your Peace) và Lumen Christi (The Light of Christ), đã gửi cho ban sản xuất, đang chờ kết quả. Những bài này viết ra theo nhu cầu của thời đại, đang khi nhân loại chém giết lẫn nhau, kêu gọi mỗi người hãy cố gắng cầu nguyện cho hoà bình, cho ánh sáng của tương lai.
 Ngoài Thánh ca, nhạc sĩ Trần Anh Linh còn sáng tác nhiều ca khúc trữ tình, phần nhiều là phổ nhạc vào thơ, đặc biệt là thơ của Thái Thụy Vy, Kiều, Hàn Mặc Tử.
Ngoài sáng tác nhạc, Trần Anh Linh cũng tập viết văn, làm thơ, viết chuyện ngắn, hồi ký. Đã viêt xong cuốn hồi ký của cả cuộc đời, cuốn Mười Điều Tâm Niệm Cho Phụ Huynh Và Con Cái Thảo Hiếu đã đăng trên nguyệt san Hương Quê.
Những năm cuối đời, nhạc sĩ Trần Anh Linh chuyển hướng sang viết một số bài đề cập tới lãnh vực tâm linh, tu đạo, mà ông đã trải nghiệm. Theo ông, đó là những kinh nghiệm thực, không bịa đặt, thêm thắt, tưởng tượng.  Tâm sự của ông là muốn chia sẻ những kinh nghiệm này để cho độc giả tùy nghi đón nhận hoặc không đón nhận.  Ông thanh minh những gì ông viết ra đều không chủ ý tuyên truyền hay bênh vực cho một chủ đích nào. Trần Anh Linh luôn nhắc nhở mình: con người được Thiên Chúa tạo dựng và ban cho nhiều tài năng vượt xa muôn loài, vậy hãy cố gắng suy ngẫm và cố thể hiện ngay trong cuộc đời tại thế này.

                                                                               Để tưởng niệm nhạc sĩ Phaolô Trần Anh Linh
                                                                                      Trần Vinh & Nguyễn Long Thao

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013



Sài Gòn chỉ còn trong nỗi nhớ (tiếp theo)

Bài này dành tặng cho các bạn ở đường Yên Đổ trong đó có tôi, tôi rất phục tác giả bài này về sức nhớ của anh.



Đoạn Đường Yên Đổ Thân Thương & Tuổi Ấu Thơ Êm Đềm

                                                                          Tác giả/Nhân vật: Trần Đình Phước |02-10-2010 |


(Thân tặng những ai quen thuộc với con đường Yên Đổ và những ai đã từng đi ngang con đường này, dù chỉ một lần.) TĐP




 Ngả tư Công Lý - Yên Đỗ



                                                  Một đọan đường Yên Đỗ thập niên 50

Mỗi người đều có một con đường kỷ niệm để nhớ và một dòng sông thơ ấu để thương. Riêng đối với tôi, con đường Yên Đổ, nơi tôi cất tiếng khóc chào đời, nơi tôi trải qua thời niên thiếu êm đềm với những người thân yêu và bạn bè thì không bao giờ tôi quên được.
Bây giờ tôi đang ở cách xa con đường ấy biết bao nhiêu ngàn dặm; dù cuôc sống căng thẳng hàng ngày, tưởng chừng như có thể xoá nhoà tất cả những gì mà đôi lúc mình muốn quên đi. Tuy nhiên, con đường Yên Đổ vẫn mãi mãi nằm trong tiềm thức của tôi.
Đường Yên Đổ tên cũ là Champagne, tên bây giờ là Lý Chính Thắng. Đường bắt đầu từ ngả ba Hai Bà Trưng và cuối đường chấm dứt ở công trường Dân Chủ hay Ngả Sáu Sàigòn. Nếu nhìn xéo một chút về phía trái bên kia đường là Ty Cảnh Sát Quận Ba. Trong pham vi bài viết này, xin mời quý vị cùng tôi chỉ đi từ phía đầu đường Yên Đổ & Hai Bà Trưng đến ngả tư Công Lý ( Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle ) mà thôi.
Xin được bắt đầu phía bên trái trước. Đầu tiên sẽ gặp trường trung học tư thục Vạn Hạnh của thầy Thích Đức Nghiêp. Đây là một cái villa cũ, có những hòn non bộ và những cây to sống lâu năm. Đặc biệt một cây sung già, cho trái chín màu rượu chát rất hấp dẫn học sinh vào những gìờ ra chơi và tan học; mặc đù trái sung ăn chát chát , không ngon lắm. Đi tiếp là một hẻm nhỏ, có tiệm hàn gió đá, bên trong có khoảng sáu căn nhà được xây bằng gạch, kế bên là trường tiểu học có cái tên Pháp rất dễ thương “La Fontaine”, số 7 đưòng Yên Đổ, do thầy Đốc là Hiệu Trưỏng. Thầy có đứa con trai tên Mạnh không được bình thường lắm. Trường La Fontaine có lẽ là một trong những trường tiểu học đầu tiên ờ vùng Tân Đinh. Đa số các trẻ em trong vùng đều bắt đầu học ở trường này, rồi sau đó chuyển sang trường tiểu học con trai Tân Đinh và trường tiểu học Đồ Chiểu. Đi tiếp sẽ gặp hẻm số 21. Đó là một cái hẻm tương đối lớn, xe hơi du lịch vào được. Trong hẻm cũng có một trưòng học tư thục, lúc đầu được đặt tên là Võ Trường Toản,về sau đổi lại thành trường Nguyễn Huệ. Hẻm có một cây khế, cho trái rất sai, một cây li kê ma trái có ruột màu vàng, còn gọi là trái hột gà, ăn thường dính màu vàng nghệ đầy miệng, nhìn kỳ kỳ. Ngoài ra, có môt villa ở cuối hẻm, đối diện với trường Nguyễn Huệ. Nhà này trồng đủ các loại mận. Nếu quẹo trái đi ra phía đường Hai Bà Trưng, trên đường đi sẽ gặp một cây thị già, cho trái chin màu vàng chanh, tiết ra một mùi thơm nhẹ nhàng. Hồi nhỏ mỗi khi đi ngang đây, em nào, em nấy đều co giò, co cẳng, nhắm mắt chạy cho thật lẹ, vì nghe đồn cây thị này có nhiều ma. Ban đêm các ma ông, ma bà, ma cô, ma cậu, ma con nít với quần áo trắng toát từ trên cây leo xuống, tóc xoả dài tới chân, hai con mắt đỏ rực như than hồng, lè những cái lưỡi màu đỏ chói, dài hơn cái đòn gánh, đi tới, đi lui, để nhát những ai đi ngang đây. Do đó về đêm, ít có ai dám đi qua nơi này. Nếu quẹo phải thì đi ra đường Huỳnh Tịnh Của (ngày xưa tên là Monceaux). Con đường này trồng toàn là cây mạc nưa, dùng để nhuộm vải màu đen. Trong ruột trái mạc nưa, có những hạt giống hạt gạo, ăn bùi bùi, béo béo. Học sinh hay lượm, đem đập lấy hạt ra ăn.
Băng qua đuờng Huỳnh Tịnh Của là xóm Hầm Sỏi, đầu ngỏ có máy nước bốn vòi. Kế bên là chỗ hớt tóc bình dân của ông Tư Cạo. Hầm Sỏi một thời nổi tiếng về du dảng ở vùng Tân Định, mà các băng nhóm quanh vùng nghe đến đều kiêng nễ. Trong xóm Hầm Sỏi, có nhiều con hẻm nhỏ khác ngoằn ngoèo và nhiều miếu đền. Hẻm đi ra đuợc đường Công Lý và trường Anh Văn Khải Minh.
Trở ra đưòng Yên Đổ, sẽ gặp tiệm may Huỳnh Lộc, sau đó đến tiệm Ngọc Diệp, chuyên bán đồ dùng cho học sinh và văn phòng phẩm. Kế tiệm Ngọc Diệp là nhà ông Khai, một triệu phú vào thời đó. Công ty của ông có tàu buôn đi ngoại quốc. Ông đã từng là chủ tịch hội cựu hoc sinh trường Bưỡi (Chu Văn An.) Ông cũng là một chuyên viên sưu tầm đồ cổ nổi tiếng. Sau đó là phòng mạch của bác sĩ Hoàng Minh Mậu, mới tốt nghiệp từ ngoại quốc về. Một Pharmacy ở sát bên của Dược Sĩ T, lúc đó mới ra trường. Hiện Dược Sĩ T có một Parmacy thuộc loại tầm cỡ ở San José. Ngoài thuốc tây ra, tiệm còn bán đủ các thứ khác giống như Drug Store, Walgreens, Rite-Aid. Đây cũng là một trong những Pharmacy đầu tiên của Thung Lũng Hoa Vàng. Sát bên là nhà của Luật Sư Ngô Phước Tặng. Ông cũng là một luật sư kỳ cựu trong luật sư đoàn của Sàigòn. Sau đó là nhà Đại Úy T. Quận trưởng Hóc Môn. Nghe đâu ông có nuôi những con ngựa đua thuộc loại chiến, tiếp theo là một villa kiểu Pháp quét vôi màu trắng. Đến đây là gặp đường Huỳnh Tịnh Của. Vừa qua khỏi đường Huỳnh Tịnh Của là một căn nhà rất lớn của ông bà chủ xe đò người miền bắc mới di cư vào. Năm 1955, vào buổi trưa, một chiếc xe Dogde đã đâm thẳng vào nhà ông bà. Người ta nói, có lẽ tài xế say rượu, nên bị lạc tay lái. Sự viêc xảy ra chớp nhoáng trong tích tắc, khiến bà chủ xe đò thiệt mạng oan uổng. Tiếp theo là một hẻm rất nhỏ, chỉ đủ dắt một chiếc xe gắn máy ra vào. Hẻm này có nhà danh hài Phi Thoàn, phía ngoài là tiệm chè Yên Đổ xuất hiện sau năm 1975, Một thời gian chè Yên Đỗ nổi tiếng trong giới học sinh và hảo ngọt của Sài gòn. Bây giờ thì trở thành tiệm hủ tíu và cơm bình dân, vì gia đình chủ tiệm chè đã đi định cư ở nước ngoài. Cạnh bên là một tịnh xá nhỏ mang tên Ngọc Diệp. Nay thì tịnh xá được xây dựng lại rất bề thế, khang trang nhờ tiền cúng dường của chư bá tánh từ nước ngoài gửi về. Đi thêm khoảng hai mươi thước sẽ gặp trụ sở Hội Cha Mẹ Nuôi Quốc Tế, nằm ngay góc ngả tư đưòng Yên Đổ và Công Lý.
Xin trở lại đầu đường Yên Đỗ đi từ phía tay phải ra đến ngả tư Công Lý. Trước tiên phải kể quán cà phê bình dân do người Hoa làm chủ. Quán có tên là Hải Nàm. Nơi bà con lao động đến nhâm nhi ly cà phê xây chừng được pha bằng vợt, thưởng thức dầu châu quẩy, bánh tiêu, bánh bao, hủ tíu mì, xiu mại và trà Thái Đức. Họ thích ngồi đưa cà hai chân lên chiếc ghế đẩu, vừa ngồi, vừa rung đùi, vừa tán gẩu, vừa hít hà. Kiểu ngồi này còn gọi là kiểu ngồi nước lụt. Kế cà phê Hải Nàm là tiệm may Văn Minh, mang tên ngưòi con trai lớn của ông chủ. Hai tiệm làm cửa sắt và máng sối nằm kế bên nhau số 4 và số 6 đường Yên Đổ là Đức Kính và Đức Vượng. Tuy có tên Đức đứng đầu, nhưng hai tiệm hoàn toàn không có bà con thân thuộc gì với nhau hết. Kế đến là tiệm sản xuất cà rem cây có tên là Bạch Tuyết. Mỗi buổi sáng sớm những người bán kem dạo, tụ họp để lấy kem. Sau đó chia nhau đi bán ở các trường học và xóm lao đông, tạo nên một khung cảnh ồn ào và huyên náo. Sau này ông bà chủ chuyển sang làm đại lý bán xe Honda. Nhà thơ thầy tu xuất gia PTT, tác giả Đoạn Trường Vô Thanh, quen biết với con trai bà Bạch Tuyết, nên bà cho nhà thơ mở quán bán nước trà sâm tại căn nhà này. Quán trà cũng thuờng được giới văn nghệ sĩ tới đối ẩm. Bên cạnh là giò chả Nhiên Hương. Tiệm này có bà con họ hàng thân thiết với giò chả Phú Hương ở đường Hiền Vương. Ông chủ tiệm giò chả Phú Hương mỗi cuối tuần đều đi thăm trường đua Phú Thọ, để xem giò cẳng ngựa đua và cho ngựa ăn cỏ. Kiếm được bao nhiêu tiền từ giò chả, bánh trái, ông cũng đổ vô đây, để trang bị cho trường đua Phú Thọ càng ngày càng tân tiến hơn. Nghe đâu sang đến Canada, ông cũng tiếp tục sự nghiệp xây dựng trường đua, làm được đồng nào, xào hết đồng nấy. Nghe đâu bây gìờ đã khuynh gia, bại sản. Đúng là cái nghiệp mê cá ngựa phải trả. Những thanh niên làm giò chả ở đây không cần tập tạ, tập thể thao, vậy mà tay chân anh nào bắp thịt cũng cuồn cuộn như lực sĩ đẹp Nguyễn Công Án, có lẽ nhờ họ giả thịt mỗi ngày. Vào mỗi dịp Tết đến, khách vô ra mua nườm nượp, giò chả sản xuất không kịp bán cho khách đến mua. Hai tiệm giặt ủi Phước và tiệm may Trường ở kế bên, diện tích không lớn lắm. Cạnh đấy là Salon Mayer bán xe hơi mới và cũ do ông chủ rạp hát Moderne tên Thanh làm chủ. Không hiểu sao, ông không đặt tên là Salon Yên Đổ. Tiếp đến là cửa hàng bán xi măng, gạch, cát, đá tên Hà Thân. Cửa hàng có một cây nhản rất nhiếu trái mà trẻ em trong vùng thích tới hái, bất kể sống hay chin. Con trai thì dùng làm đạn, bắn với ná hay chơi đánh giặc chọi qua, chọi lại, có em cũng bị sưng đầu, sứt trán. Còn mấy cô nàng thì lấy hột nhản, đem khoét thành cà rá đeo tay, chơi trò “Đám Cưới Đầu Xuân”, trao nhẩn Nhản cho nhau.
Bây giờ tới con hẻm số 32. Nơi đây chỉ có bốn căn nhà. Con hẻm rất rộng, lôi cuốn con nít ở các xóm chung quanh kéo đến chơi u bắt mọi, đá banh, đá cầu,tạt lon… Đặc biệt là đập vách tường ăn tiền, vì hai bên là hai căn nhà xây bằng gạch. Kết quả hai bên vách tường của hai căn nhà bị đồng năm cắc, có hình Tổng Thống Ngô Đình Diệm của lũ nhóc đập sáng, đâp trưa, đập chiều, và đập tối, khiến hai vách tường rỗ nát như “Dấu Đạn Thù Trên Tường Vôi Trắng.”
Căn nhà đầu tiên số 32/1 là của ông Lê Văn Lung, Trưởng Ty Tiểu học Sàigòn. Ty tiểu học nằm trong khuôn viên trường tiểu học Lê Văn Duyệt trên đường Phan Đình Phùng – Quận 1. Vào thời đó chức vụ Trưởng Ty rất oai phong, lẫm liệt. Ông đi làm có tài xế riêng đưa đón trên chiếc xe hơi hiệu Traction màu đen, mà lúc nào cũng láng coóng. Người ta thường thấy bác tài xế của ông, trong lúc chờ ông, hay lấy khăn ra lau tới, lau lui, lau hoài riết bóng. Ông Trưởng ty có cô con gái đầu lòng tên D… Cô giáo D…dạy môn Vạn Vật lớp Đệ Thất và Đệ Lục trường Trung Học Công Lập Võ Trường Toản. Học sinh nào đã từng học cô, dù bây giờ đã rời xa trường bao nhiêu năm. cũng không bao giờ quên cô. Cô D…thường hay cho điểm hạnh kiểm học sinh rất thấp. Ôi! Cô giáo D… danh tiếng muôn đời.!!!
Xin tiếp đến tiệm thuốc Đông y của Đông Y Sĩ Trần Gia Viên, chuyên bán thuốc cao đơn hườn tán, thuốc tễ, dầu Nhị Thiên Đường, dầu Khuynh Diệp Bác Sĩ Tín, bắt mạch cho toa và hốt thuốc. Kế bên là lò bánh mì Thuận Thái, cung cấp bánh mì cho các xe bán bánh mì thịt quanh vùng và bà con lao động. Đấu thủ bóng bàn nổi tíếng của miền Nam, đã từng chiếm những thứ hạng cao về môn bóng bàn trên các thao trường quốc tế là Mai Văn Hoà đã bị thiệt mạng trong một tai nạn lưu thông ngay trước lò bánh mì này. Kế tiếp là phở bắc Việt Hương, về sau đổi tên thành tiệm may Hoàng, chuyên may, vá và sửa quần Jeans. Tiếp tục đi sẽ gặp phòng mạch của Bác Sĩ Trần Đình Ngân. Phòng mạch Bác sĩ Ngân mở được vài năm thì ông qua đời. Sau khi ông mất, Bác Sĩ Vũ Ban đến thay thế. Bác Sĩ Vũ Ban lúc đó còn trẻ, người cao ráo, đẹp trai rất được nhiều nữ bệnh nhân ái mộ đến xin khám bệnh, dù chỉ bị cảm mạo sơ sài có thể ở nhà uống vài viên Aspro cũng có thể khỏi. Ở đây có một cái hẻm nhỏ mang số 58 gồm hai mươi bốn căn nhà. Trong hẻm có một cái giếng, một cây mận. và một cây vú sữa. Người ta cũng còn gọi là xóm Giếng. Trước khi thành xóm, chỗ này là nghĩa trang của người Chà Và. Cạnh phòng mạch bác sĩ Vũ Ban là trường dạy lái xe hơi Yên Đổ, kế bên là nhà in Ngô Mạnh Hùng. Cô con gái lớn của ông chủ nhà in là nữ sinh Trưng Vương tên NKT. Cô là thi sĩ tuổi học trò. Thơ của cô được đăng thường xuyên trên các báo Chính Luận, Văn Nghệ Tiền Phong… Đặc biệt thi sĩ học trò NKT sang tác thơ thường chỉ tặng riêng cho Sinh Viên Trường Võ Bị Đà Lạt. Do đó cô có biệt danh là “Người Tình Alpha Đỏ”. Sau này cô lập gia đình với một sinh viên sĩ quan Alpha đỏ, đúng như ý nguyện của cô.
Nhà in Ngô Mạnh Hùng nằm ở dưới lầu. Phần trên lầu là nhà của song thân Niên Trưởng TTT, Phi Đoàn Trưởng Phi Đoàn Trực Thăng 217, thuộc Sư Đoàn 4 Không Quân. Niên trưởng có hai cô em gái trông thật dễ thương. Không biết có quí chiến hữu nào thuộc phi đoàn 217, hay trong Quân Chủng Không Quân được làm em rễ của niên trưởng không? Nếu không thì uổng quá!!!
Bây giờ phải kể đến một tiệm tạp hoá của người Hoa nằm ngay đầu hẻm 60 và 62. Tiệm tạp hoá Quảng Đức Long rất lớn trong vùng. Tiệm bán mọi hàng hoá thiết dụng hàng ngày cho bà con lao động. Bà Quảng Đức Long rất tốt và phúc hậu. Bà sẳn sàng bán thiếu cho bất cứ ai khi gặp khó khăn đến mua. Hai đứa con trai bà tên Xí và Ngầu đến tuổi quân dịch, bà lo cho hai cậu quý tử đi đuờng bộ sang Cam Bốt, sau đó đi Hong Kong. Cô con gái tên Xây Dùng, duyên dáng, đẹp người, ngoài ba mươi tuổi, mà vẫn còn ca bài “Lẻ Bóng”
Hẻm 60 còn gọi là xóm Cù Lao rất rộng. Xe cam nhông đi vào đươc. Ngay đầu hẻm có xe sâm bổ lượng chú Dìn, xe nước mía của chú Thoòng, bà tư Đun bán khô mực, chú Sừng bán hủ tiếu mì bình dân, bà tám Đậu bán bánh bèo, bà Tố bán rau quả và Chín Máy sửa xe gắn máy.. Nơi đây cũng là bến đậu của các bác xích lô và Honda ôm dùng để đón khách.
Từ ngoài đầu hẻm đi khoảng muời thước là gặp một cây me lớn. Quẹo trái là hẻm 62, còn gọi là xóm nhà Đèn vì đa số dân trong xóm là ngườ sinh quán ở Quảng Bình, miền trung. Tất cả chuyên làm về điện. Họ kéo vô nam lập nghiệp và rủ rê nhau cùng vào đây sinh sống. Hẻm này đi ra đươc đường Công Lý và chùa Vĩnh Nghiêm. Ca sĩ thần đồng Phương Mai của ban tạp lục Tùng Lâm ở trong hẻm này.
Hẻm 60 rất dài, giửa xóm có một hẻm nhỏ là hẻm xóm Vựa Gạo, đi ra được đường Hai Bà Trưng. Cuối hẻm 60 là một ngả ba, giáp với sông Cầu Kiệu. Chiều chiều con nít rũ nhau ra đây tập lội bì bà, bì bõm dưới sông. Có hôm gần mưòi em đứng trên cầu Kiệu, đợi ngưòi ta đi qua đông, rồi cùng la Môt, Hai, Ba. Tất cả pờ lông dông xuống sông, làm nước tung toé ướt cả người đi đường. Trong hẻm 60 có một tiệm giặt ủi quần áo không tên. Từ ngoài đường đi vào, tiệm nằm phía tay trái. Ông bà có nhiều con trai. Trong số đó có một người con nổi tiếng trong giới giang hồ, võ lâm thời đó là Vũ Đình S.. tức S… Đảo. Dáng người cao ráo, đẹp trai, có nét ngạo mạn và oai hùng. Anh được nhiều phụ nữ ưa thích. S.. Đảo bị bắn chết trước một vũ trường ở Quận 1, Saigon. Lúc anh đang lui cui cúi xuống xem bánh xe mô tô bị ai đâm lủng. S.. Đảo còn có một em trai là Vũ Đình C…, một tay vợt bóng bàn có hạng của đội Quân Vận. Vũ Đình C… bị một tay giang hồ, đàn em của Đại Ca Thay là Lâm Chín Ngón đâm chết trong khám Chí Hoà để tự vệ, sau khi bị C…tấn công dồn dập..
Bây giờ trở ra đường Yên Đổ. Đầu hẻm bên trái là tiệm thuốc Tây Nguyễn Huy của Dược Sĩ Nguyễn Huy. Nằm cạnh bên là chỗ cho mướn xe xích lô máy của nhà anh Thịnh, nhân viên thuế vụ. Số nhà 74 Yên Đổ nằm cách đó vài căn là đia chỉ mà những đấng nam nhi, mày râu thích Lạc Động Hoa Vàng thường tìm đến. Đây là một động mải dâm hạng sang của Saigòn trước năm 1975. Chủ nhân là chị Sáu Nh.. dáng người trông đẹp, có da, có thịt, ăn nói nhẹ nhàng, luôn luôn đeo cặp kính trắng rất ư là trí thức. Dưới tay chị hàng mấy chục em rất xinh đẹp và lúc nào cũng thuần phục chị. Khách đến đây đa số là giới áp phe, văn nghệ sĩ, cũng có quân nhân, và viên chức chính quyền. Muốn vào phải quen biết trước, hoăc qua sự giới thiệu thì may ra chị cho em út tiếp, còn không thì coi như “Vô phận sư – Xin miễn vào.” Hầu như khách đã vào đây, khi ra về, ai cũng tấm tắc khen và không một ai phàn nàn gì hết, vì được các em chăm sóc từ A đến Z. Đúng là: “Vui lòng khách đến – Vừa lòng khách đi.” Chị Sáu Nh..quen biết nhiều người đàn ông trong đời. Người đàn ông cuốí cùng là một sĩ quan cấp tá, to lớn, đẹp trai, tuớng rất hào hoa. Lúc đó chị mua tặng cho ông ta một chiếc Mustang đời mới nhất. Sau 1975, ông ta bị kẹt, chị vẫn giử một lòng chung thủy. Chị đi thăm nuôi ông rất đều đặn. Chị Sáu Nh.. qua đời vì ung thư ngực, lúc tuổi ngoài năm mươi. Hình như khoảng năm 1990.?
Môt động mải dâm thứ hai cũng nằm trên đoan đưòng còn lại của Yên Đổ và Công Lý. Đó là động bà Đ…Bà Đ…ngưòi mảnh khảnh, nước da trắng đẹp, tóc búi tó củ hành, ăn nói cũng nhỏ nhẹ và dáng đi thật khoan thai. Động bà Đ.. nằm sâu trong hẻm 82 Yên Đổ. Từ ngoài đường đi vào hẻm, đầu tiên sẽ gặp tiệm chuyên may nón nổi tiếng là Hai Ve. Một thời các tay chơi Sài gòn đều thích đội nón do Hai Ve sản xuất. Đi thêm vài thuớc, quẹo phải có một ngỏ hẻm nhỏ đi ra đươc hai hẻm 62, 60 và đường Huỳnh Tịnh Của nối dài. Nếu tiếp tục đi khoảng mưòi thước sẽ gặp nhà bà Đ…Căn nhà nằm ngay cua quẹo ra được đường Công Lý. Trước khi ra đến đường Công Lý sẽ gặp phở gà chị Lan, nằm đối diện với cư xá Công Lý. Phở chị Lan cũng thuộc loại nổi tiếng, các tướng tá và công chức cao cấp cũng thường đến đây ăn. Cách xe phở chị Lan một căn là nhà của ông Bảy Búa. Ông là nhà thầu lớn, chuyên thầu chôn cất, làm thũ tục mai tang và bán hòm. Tiệm hòm có tên là Công Vĩnh Thọ. Đặc biệt tang gia nào nghèo, gặp khó khăn thì ông thông cảm tính giá nhẹ tay . Nếu tang gia khá giả, có tiền, có của, ông ta sẳn sàng đập sòng phẳng bằng bảy búa. Ông rất thích cải lương. Ông kết mô đen cô đào cải lương hạng hai TBL. Ông thường mua giàn doàn hát có TBL và chu cấp cho cô ta mọi thứ kể cả nhà cửa và xe cộ.
Nhắc lại động bà Đ…Mặc dù nằm khuất trong hẻm, nhưng động bà Đ..cũng nổi tiếng là một động mải dâm hạng sang của Sài gòn, không thua gì động chị Sáu Nh.. Em út ở đây cũng đông, đẹp và săn sóc khách rất tận tình. Muốn vào thăm cho biết sự tình, cũng đòi hỏi có sự quen biết trước hoặc thông qua người thân tín giới thiệu. Đúng là thời buổi nào “Có quen biết cũng vẫn hơn.” Những lúc khách bên này đông, bên kia vắng thì chị Sáu và bà Đ…cùng hổ tương lẫn nhau. Mặc dù kinh doanh một mặt hàng tương tự, không cần phải bỏ vốn đầu tư nhiều, nhưng giữa chị Sáu Nh.,và bà Đ…chưa bao giờ xảy ra những xích mích, tranh chấp và cạnh tranh nghề nghiệp, để đi đến mất lòng nhau. Sau này phát triển mạnh, bà Đ..thuê hẳn một villa lớn ở đường Huỳnh Tinh Của. Villa này nằm đối diện với nhà của một sĩ quan cao cấp. Ông này cặp với một cô đào cải lương nổi tiếng và cũng là người cùng quê với Tổng Thống. Hiện nay bà Đ cùng gia đình vẫn tiếp tục sống ở hẻm 82. Hàng ngày bà thường đi lễ ở nhà thờ Tân Định, tay lúc nào cũng lần xâu chuỗi hạt màu đen.
Suốt bao nhiêu năm hoạt động ồn ào và nổi tiếng nhất Sài Gòn, thế mà hai động mải dâm hạng sang của chị Sáu Nh..và bà Đ.. ít bị chính quyền Phưòng, Quận và Thành Phố để mắt hỏi thăm hoặc bị làm khó dễ. Nếu hôm nào có tổ chức hành quân cảnh sát bố ráp thì hôm đó cả hai động đều tạm ngưng hoạt động, các em út được nghỉ dưỡng sức để xả hơi. Sau đó thì đâu cũng vào đấy.
Sau hết, xin nói về một villa lớn, rất đẹp, có nhiều hoa, lá, cây, trái và nhiều chó Berger. Đó là cơ ngơi của ông Đội Có. Ông rất giàu, có nhiều đất đai, có nhiều nhà cửa cho mướn. Các bất động sản của ông nằm đối diện với chợ Phú Nhuận, mà bên cạnh có xe nước mía nổi tiếng. Hẻm Đội Có mang tên ông có trước năm 1975, cũng như bây giờ. Hẻm đi ra đươc đường Chi Lăng và ngược ra đươc xóm cầu Mới – Tân Định. Có lúc Villa mở Billards tên Anh Đào, tên cháu gái của ông Đội Có là nữ sinh trường Marie Curie. Hiện nay villa của ông đã được con cháu đem bán cho người khác. Villa này bị đâp phá hoàn toàn và một công trình xây dựng lớn đang được bắt đầu xây cất.
Xin phép được dừng ở đây. Còn nhiều chi tiết mà tôi không thể nhớ hết. Xin bà con Tân Định và bất cứ ai có cảm tình với con đường Yên Đổ thân thương, hãy vui lòng bổ túc đoạn đưòng còn lại bằng bài viết hay hình ảnh với xóm Lách có quán bán đồ chay vào ban đêm, xóm bến Tắm Ngựa, xóm Bắc Kỳ hẻm 288, có phở bà Dậu – Công Lý chính hiệu, có hẻm Hàng Không Việt Nam, Chùa Vĩnh Nghiêm, Viện Bào Chế OPV, Cảnh Sát Cuộc Đặng Văn Bắc, Cư Xá Yên Đổ, Trung Tâm Đắc Lộ và chùa Miên dưới chân cầu Trương Minh Giảng…
Xin cảm ơn và chúc bình an đến tất cả.



                                                                                    Trần Đình Phước
                                                                                 (San José 10 – 2010)

Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

 Sài Gòn chỉ còn trong nỗi nhớ (tiếp theo)

Tôi gởi đến các bạn bài viết về vùng Đa Kao của Lâm Vĩnh Thế. Bài này dành cho những bạn đã một thời sinh sống ở nơi đây.

ĐaKao: Một Trung Tâm Văn Hóa
Lâm Vĩnh Thế


Trưc năm 1975, vùng Đakao thuc Qun I của thủ đô Sài Gòn. Trong thi Pháp thuc, vùng này có tên là Đất Hộ. Tuy hiện nay chưa có những tài liệu nghiên cứu nghiêm chĩnh và có hệ thống về lịch sử của vùng đất nầy khiến ta không rõ về nguồn gốc của địa danh nhưng có thể khẳng định đây là một trong những vùng đất được khai thác từ lâu đời nhất của Saigon, có lẻ đã trên một trăm năm. Một bằng chứng cụ thể là Chùa Ngọc Hoàng, ở đường Phạm Đăng Hưng, theo sách "Saigon Năm Xưa" của cố học giả Vương Hồng Sển, nguyên Giám Đốc Viện Bảo Tàng Saigon, đã được xây cất từ năm 1905. Điều nầy có thể giải thích phần nào do vị trí nằm sát Rạch Thị Nghè, một nhánh của Sông Saigon, một trục giao thông quan trọng, nhất là trong giai đoạn mới bắt đầu khai thác của thực dân Pháp.  Với vị thế là một vùng đất xưa, Đakao đã có một đời sống văn hóa khá đậm nét về nhiều mặt. Một điều đặc biệt cần lưu ý là khu Đakao, so với phần lớn những khu vực khác trong thành phố Saigon, có một mật độ rất cao về cơ sở văn hóa.

Các Cơ  Sở Giáo Dục

Trước hết xin nói về các cơ sở của Bộ Giáo Dục. Hầu hết các bộ phận đầu nảo của Bộ đều tọa lạc trong khu Đakao. Trụ sở của Bộ Giáo Dục, với các bộ phận trực thuộc như Nha Du Học, Nha Kế Hoạch, đều nằm tại khu vực ngả tư Lê Thánh Tôn và Hai Bà Trưng. Hai bộ phận khác cũng rất quantrọng của Bộ là Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, và Nha Khảo Thí đều tọa lạc tại đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, đối diện với Sở Thú. Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ thì được đặt tại đường Mạc Đĩnh Chi, đối diện với Nha Khí Tượng. Ty Tiểu Học Saigon thì nằm trong khuôn viên của Trường Nữ Tiểu Học Đakao, trên đường Phan Đình Phùng, đối diện với Phòng Thí Nghiệm Vi Trùng Học.
Về các trường đại học, sau cuộc đão chánh 1-11-1963, thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Lữ Đoàn Phòng Vệ Phủ Tổng Thống, đã được biến thành trụ sở của hai trường Văn Khoa và Dược Khoa. Về sau Trường Nông Lâm Súc cũng được đưa về đây luôn. Hai Trường Luật Khoa, nằm trên đường Duy Tân, và Kiến Trúc, nằm gần ngả tư Duy Tân và Phan Đình Phùng, cũng như trụ sở của Viện Đại Học Saigon, nằm ngay tại Công Trường Chiến Sĩ (mà sau năm 1975 dân chúng Saigon thường gọi là Hồ Con Rùa), bên cạnh trường Luật Khoa, cũng có thể xem là thuộc khu Đakao.

 


Thành Cộng Hòa, đường Cường Để với các trường đại học. Trước đảo chính 1/11/1963 không có đoạn đường này




Ngả tư Hồng Thập Tự-Đinh Tiên Hòang cạnh đài truyền hình

Về các trường trung học công lập, thì phải kể ngay đến trường nam Võ Trường Toản, và trường nữ Trưng Vương, nằm ngay bên cạnh Tổng Nha Trung, Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục. Trong thời Pháp thuộc, tại địa điểm nầy là Ecole Normale (Trường Sư Phạm) đào tạo giáo viên tiểu học cho cả Nam Kỳ. Cả hai trường Võ Trường Toản và Trưng Vương đều là trường trung học đệ nhị cấp (sau 1975, chính quyền mới gọi là trường phổ thông cấp ba), dạy đến lớp đệ nhứt, tức là lớp đi thi bằng cấp Tú Tài II. Ngoài ra, tại đường Hồng Thập Tự, ngó ngay ra ngả ba với đường Phùng Khắc Khoan, từ thập niên 60 trở đi, ta còn thấy có trường Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ.  Trường nầy chỉ là một trường trung học đệ nhất cấp mà thôi.
Về các trường trung học tư thục, thì khu Đakao tập trung phần lớn các trường nổi tiếng của Saigon. Vào đầu thập niên 50, khi chương trình Pháp vẩn còn được giảng dạy song song với chương trình Việt, thì phải kể đến hai trường quan trọng là trường Vương Gia Cần, nằm trong một biệt thự có lầu ở đường Phan Thanh Giản, đối diện với ngả ba Phan Kế Bính, và trường Les Lauriers, ở đường Mạc Đĩnh Chi, giữa ngả ba Phan Thanh Giản và ngả tư Tự Đức, sau dời về đường Đinh Công Tráng, gần ngả ba Lý Trần Quán, và đổi tên là trường Tân Thịnh. Các trường dạy chuyên về chương trình Việt thì quan trọng nhứt phải kể đến trường Huỳnh Khương Ninh, nằm trên đường D'Ariès, gần đầu ngả ba với đường Paulin Vial. Trường nầy có từ rất lâu đời, gồm một dãy nhà hai tầng khang trang, dạy cả tiểu học và trung học, điều hành bởi một ban giám đốc và giảng huấn có khả năng, tận tâm và yêu nghề, và đặc biệt là có tinh thần yêu nước cao. Chính vì thế, trong thời Pháp thuộc, trường nầy đã là mục tiêu theo dõi thường xuyên của mật thám Pháp. Sang thời Cộng Hòa, trường nầy cũng lại là nơi tập trung một số cán bộ đảng viên của đảng Cộng Sản, nên cũng vẫn tiếp tục bị theo dõi nghiêm nhặt bởi Tổng Nha Cảnh Sát. Sau ngày 30-4-1975, vị  Hiệu Trưởng của trường nầy đã được chính quyền quân quản đề cử làm Giám Đốc đầu tiên của Sở Giáo Dục Thành phố Hồ Chí Minh. Kế đến là các trường Huỳnh Thị Ngà, ở đường Trần Nhật Duật, và trường Việt Nam Học Đường, ở cuối đường Đặng Tất. Sau thập niên 60, thì có thêm hai trường là trường Văn Hiến, ở đường Trần Quang Khải, gần rạp chớp bóng Văn Hoa, và trường Tân Thanh, ở đường Trần Quý Khoách, sau lưng trường Việt Nam Học Đường. Một trường trung học tư thục nữa ở Đakao là trường Đông Tây Học Đường, nằm ở đường Hai Bà Trưng, đối diện với ngả ba đường Tự Đức. Trường nầy chỉ sống được mấy năm vì ít học sinh và vì kết quả giáo dục tương đối kém nên không cạnh tranh nổi với các trường tư thục khác trong vùng. Ngoài ra cũng phải kể đến trường chuyên dạy Anh ngữ đầu tiên của Saigon là Trường Anh ngữ Trần Gia Độ, nằm trên đường Phạm Đăng Hưng, gần chùa Ngọc Hoàng (về sau là địa điểm của Vỏ dường Nhu đạo của Thích Tọa Thích Tâm Giác).  Tất cả các trường trung học tư thục nầy, dù nhiều dù ít, đều đã có những đóng góp quan trọng vào việc giáo dục thanh thiếu niên ở cấp trung học trong một thời gian dài, nhất là trong thập niên 50 (trước 19540) vì lúc đó tại Saigon chỉ có một trường trung học công lập duy nhất là Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký ở mải tận trong khu Nancy, gần Chợ Lớn. Tất cả học sinh Saigon, sau khi thi đậu bằng Tiểu Học, đều phải trải qua kỳ thi tuyển vào trường Pétrus Ký. Năm 1953 khi tôi tham dự kỳ thi tuyển nầy, trường Pétrus Ký chỉ lấy vào 550 học sinh cho 10 lớp Đệ Thất. Những học sinh rớt kỳ thi tuyển nầy không còn cách nào khác hơn là phải theo học tại các trường trung học tư thục.
      Về các trường tiểu học công lập, khu Đakao có hai trường, trường nam nằm trên đường Đinh Tiên Hoàng, giữa hai đường Tự Đức và Nguyễn Thành Ý, và trường nữ, nằm trên đường Phan Đình Phùng, cùng một địa điểm với Ty Tiểu Học Saigon. Tôi theo học trường nam suốt bậc tiểu học, cho đến khi thi đậu vào trường Trung Học Pétrus Trương Vĩnh Ký, nên đã có rất nhiều kỹ niệm với ngôi trường nầy. Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây để nói thêm vài điều về giáo dục tiểu học và ngôi trường nầy. Chương trình giáo dục tiểu học lúc đó đã được chuyễn ngữ, dùng tiếng Việt để giảng dạy, nhưng vẩn còn phải học môn Pháp văn. Tên gọi của các cấp lớp đều dùng cả hai ngôn ngữ: Lớp Năm (nôm na gọi là Lớp Chót) - Cours Enfantin, Lớp Tư - Cours Préparatoire, Lớp Ba - Cours Élementaire, Lớp Nhì - Cours Moyen, Lớp Nhứt - Cours Supérieur, và Lớp Tiếp Liên - Cours Certifié. Về thi cử, hết Lớp Ba thì phải qua một kỳ thi lấy văn bằng Sơ Đẳng Tiểu Học, đậu thì mới được lên Lớp Nhì. Hết Lớp Nhứt thì phải đi thi lấy văn bằng Tiểu Học. Đậu bằng Tiểu Học rồi thì mới được làm đơn xin dự kỳ thi tuyển vào Lớp Đệ Thất của trường Trung Học Pétrus Ký.  Những người thi rớt kỳ thi tuyển nầy, muốn năm sau thi lại, thì xin vào học Lớp Tiếp Liên. Trong thời gian tôi theo học, trường nam Tiểu Học Đakao có 2 lớp cho mổi cấp, trừ cấp Tiếp Liên chỉ có một lớp thôi. Xin đóng dấu ngoặc lại ở đây.
      Về các trường tiểu học tư thục, khu Đakao có rất nhiều cơ sở như thế nhưng tôi không còn nhớ được hết, nên chỉ xin kể ra đây những trường tôi còn nhớ được. Trường đầu tiên tôi muốn nói đến là trường Quốc Học, không phải vì nó là trường lớn nhứt hay quan trọng nhứt mà chỉ vì đó là ngôi trường tôi theo học đầu tiên trong đời. Đó là cuối năm 1947, tôi mới được 6 tuổi, mẹ tôi đóng tiền cho tôi vào học Lớp Chót tại trường nầy để chuẩn bị cho tôi năm sau sẽ xin vào trường Tiểu Học Đakao. Ngôi trường nầy nằm ở đường Legrand de la Liraye (sau gọi là đường Phan Thanh Giản), gần ngả tư với đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), ngay đằng sau tiệm hủ tiếu của người Hoa ở ngả tư nầy. Trường nầy chỉ là một căn phố và có 3 lớp mà thôi, một Lớp Chót, một Lớp Tư và một Lớp Ba. Tôi theo học tại trường nầy độ 5 hay 6 tháng gì đó mà thôi, đủ để biết đọc, biết viết, và thuộc cữu chương. Sau trường nầy thì phải kể đến các trường nằm trên đường Paul Bert (Trần Quang Khải) mà tôi chỉ còn nhớ tên được một trường mà thôi, đó là trường Lễ Văn (chắc là đặt tên theo câu Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn). Từ cuối thập niên 50 trở đi, mới thấy xuất hiện các trường Mẫu Giáo, và khu Đakao cũng có hai cơ sở lớn và nổi tiếng, đó là Trường Michelet, sau đổi tên là Rạng Đông, ở đường Hiền Vương, gần ngả ba Lý Trần Quán, và Trường Mạnh Mẫu, nằm trong đường Lý Trần Quán.

Các Cơ Sở Tôn Giáo

Song song với cơ sở giáo dục như vừa kể qua ở trên, các cơ sở tôn giáo trong vùng mới chính thật là nét văn hóa đặc thù của khu Đakao. 
Trước hết xin nói về các ngôi đình.  Tôi tin rằng trong toàn thành phố Saigon không có khu vực nào có nhiều đình như khu Đakao và tập trung trong một diện tích nhỏ hẹp như vậy. 
Nội trên đường Trần Quang Khải thôi ta đã có đến 4 ngôi đình.  Ở khoảng đầu đường, đi vào từ ngả tư với đường Đinh Tiên Hoàng, bên phải có một ngôi đình mà tôi không còn nhớ tên, ngôi đình nầy bề ngoài trông như một căn phố, không có sân; cách đó chừng mười lăm mét, bên tay trái là ngôi đình lớn nhứt trong toàn khu Đakao, đó là đình Nam Chơn.  Đình nầy có sân rất rộng, có cả một cây đa cổ thụ ngay ở trước, phía bên trong vách tường bằng gạch ở mặt tiền.  Chính dưới bóng mát của cây đa nầy là các bàn hớt tóc mà tôi đã nhiu lđến ht tóc lúc còn nh.  Vào bên trong, toà nhà của đình với điện thờ nằm bên tay trái, phần còn lại là một khoảng sân đất rất rộng, đây là nơi dựng rạp khi cúng kỳ yên.  Rạp được dựng lên bằng vải và được sử dụng cho hai việc: ban ngày là nơi để cho khách đến cúng đình ngồi nghĩ uống nước, ghi sổ cúng tiền, và chờ đợi đến phiên mình vào lể khi bên trong điện đã quá chật, ban đêm trở thành rạp hát để trình diển các vở tuồng hát bội.  Sau đình Nam Chơn, ra đến gần ngả ba với đường Nguyễn Phi Khanh, bên tay phải lại có một ngôi đình nhỏ nữa, tôi cũng không nhớ tên ngôi đình nầy, chỉ nhớ ngôi đình nằm bên cạnh một con hẽm nhỏ, và là nơi đóng đô thường trực của một đoàn hát bội nhỏ.  Qua khỏi ngả ba Nguyễn Phi Khanh, tại ngay ngả ba với đường Bà Lê Chân, là đình Phú Hòa, với cửa vào quay ra đường Bà Lê Chân, chính tại đây có quán cà phê của nghệ sĩ cải lương lừng danh Bảy Nhiêu.  Đình Phú Hòa thường được các đoàn cải lương lớn dùng làm nơi tập tuồng mới. 
Trên đường Nguyễn Phi Khanh, ngay ngả ba với đường Huyền Quan, gần ra tới ngả ba với đường Trần Quang Khải, cũng có một ngôi đình lớn là đình Sơn Trà.  Đình nầy chỉ nhỏ hơn đình Nam Chơn thôi, phía trước và dọc theo cạnh đường Huyền Quan là hàng rào cây sống.  Trước mặt tiền của điện thờ cũng là một sân đất lớn và, cũng như đình Nam Chơn, đây là nơi dựng rạp trong các dịp cúng kỳ yên.  Chính tại ngôi đình nầy tôi đã được mẹ tôi cho đi theo để coi những vở tuồng hát bội nổi tiếng của thời đó như tuồng San Hậu, Huê Dung Đạo, Thần Nữ Dưng Ngủ Linh Kỳ, Trãm Trịnh Ân..., với các cô đào hát bội một thời vang bóng như Cô Năm Đồ, Cô Cao Long Ngà ... Tôi còn nhớ mãi cái không khí ngột ngạt của các đêm hát bội tại đây.  Rạp bằng vải bố, che không cao lắm, bên trong rạp rất chật, và nóng bức.  Sân khấu bằng gổ cũng không cao lắm, và gần như lúc nào cách bài trí cũng giống nhau, dầu là cảnh nhà dân, nhà quan, hay cung vua, cũng chỉ thấy có một cái bàn với hai cái ghế để ở hai bên, cả bàn và ghế đều có tấm phủ mầu sắc đẹp.  Ngay đưới sân khấu, chỉ có hai hay ba hàng đầu là để ghế, các hàng còn lại toàn là băng gổ.  Ngay trước cái ghế ở chính giữa hàng ghế đầu có để một cái trống lớn, và người ngồi ở cái ghế đó thỉnh thoảng cầm cây chầu đánh vào trống mấy cái thùng thùng. Về sau lớn lên tôi mới biết đó là một vị chức sắc trong đình có nhiệm vụ "cầm chầu" để làm cái việc đánh giá cách trình diển của các nghệ sĩ trên sân khấu.  Thỉnh thoảng người đi xem cũng tham gia vào việc tán thưởng các nghệ sĩ bằng tiền, họ kẹp tiền vào các cây quạt xếp bằng giấy và liệng quạt lên sân khấu.  Đoàn hát luôn luôn có người phụ trách đi lượm các cây quạt, gở tiền ra và mang quạt không trả lại cho khán giả.        
Trên đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, ngay ngả tư với đường Tự Đức, là đình Tân An, cũng là nơi đóng quân của một đoàn cải lương nhỏ.  Tôi không có kỹ niệm gì về ngôi đình nầy.
Ngoài ra khu Dakao còn cái đình nhỏ nữa.  Đình nầy nằm trong một con hẽm trổ ra gần nơi đường Đinh Tiên Hoàng gặp đường Hiền Vương.  Con hẽm nầy ăn thông ra đến đường Huỳnh Khương Ninh.  Tôi không còn nhớ tên ngôi đình nầy.
Như thế là trong một khu vực với diện tích chưa tới một cây số vuông, ta có tất cả 7 ngôi đình.  Nếu tính theo đường chim bay, hai ngôi đình lớn nhứt trong khu Đakao, đình Nam Chơn và đình Sơn Trà, cách nhau chưa tới hai trăm mét. Hồi còn nhỏ tôi hoàn toàn không nghĩ gì về mật độ tập trung nầy của các ngôi đình trong vùng.  Về sau lớn lên, nhất là tôi lại học về ngành sử, nét văn hóa đặc thù nầy làm tôi thấy thắc mắc nhiều.  Vì thông thường mổi làng chỉ có một ngôi đình mà thôi, làm nơi thờ thành hoàng bổn cảnh .  Làng ở trong Nam lại thông thường có diện tích rất lớn.  Thật khó tin là khu vực nhỏ bé nầy của Đakao, nơi quy tụ bảy ngôi đình nầy, ngày xưa là địa hạt của bảy cái làng.  Nhưng nếu không phải như vậy thì tại sao lại có tới bảy cái đình.  Tôi đã có dự định làm một cuộc nghiên cứu về các ngôi đình nầy để tìm câu trả lời nhưng chưa bao giờ làm được vì nhiều lý do ngoài ý muốn.  Cho đến một hôm vào khoảng cuối năm 1974, rất tình cờ, thắc mắc nầy của tôi đã được giải đáp một phần nào.  Hôm đó tôi đi họp ủy ban tại trụ sở của Hội Đồng Văn Hóa Giáo Dục (HĐVHGD) ở đường Trần Quý Khoách mà tôi là một thành viên.  Trong khi chờ họp, tôi ngồi trò chuyện với cụ Đổ Văn Rở, Thứ Trưởng Bộ Văn Hoá Giáo Dục Đặc Trách Văn Hóa,  Phó Chủ Tịch Văn Hóa của HĐVHGD (ở nhiệm kỳ 2 nầy của HĐVHGD, 1974-1977, Chủ Tịch HĐVHGD là Phó Tổng Thống Trần Văn Hương, Phó Chủ Tịch Giáo Dục của Hội Đồng là Giáo Sư Trần Văn Tấn, Khoa Trưởng Đại Học Sư Phạm Saigon).  Tôi không còn nhớ chúng tôi đã khởi đầu câu chuyện như thế nào nhưng sau một hồi thì câu chuyện xoay quanh các ngôi đình của vùng Đakao.  Tôi chợt nhớ lại thắc mắc của mình nên đem vấn đề ra hỏi cụ Rở.  Không suy nghĩ gì cả, cụ nói ngay ý nghĩ của cụ ra cho tôi nghe, và tôi nhận thấy cụ rất có lý, và đây có thể là mấu chốt của vấn đề.  Theo cụ Rở, những người đã dựng lên các ngôi đình nầy là những di dân thuộc các làng chài lưới đánh cá từ miền nam Trung phần vào.  Tiếng địa phương gọi các làng chài nầy là các Vạn.  Vào đây rồi, khi đã ổn định thì họ lập đình để tiếp tục thờ cúng các vị thành hoàng của họ.  Mổi Vạn đều có thành hoàng riêng nên bắt buộc họ phải lập đình riêng.  Đó là lý do tại sao có quá nhiều đình trong môt phạm vi nhỏ hẹp như thế.  Cụ Rở đưa ra bằng chứng là ngay tại vùng Đakao nầy có một xóm gọi là Xóm Vạn Chài.  Xóm nầy nằm sát bờ Rạch Thị Nghè, ngay phía sau khu vực trường Văn Hiến và rạp chớp bóng Văn Hoa ở đường Trần Quang Khải sau nầy, gần như đối diện với đình Nam Chơn, và cũng không cách đình Sơn Trà bao xa.  Cho tới thập niên 50, lúc tôi còn nhỏ, xóm nầy vẩn còn mang tên là Xóm Vạn Chài.  Lý luận và bằng chứng cụ Rở đưa ra khá vững, tôi nghĩ là bước kế tiếp cần thực hiện là nghiên cứu các thần sắc (nếu còn) thờ trong các ngôi đình nầy, chắc chắn ta sẽ tìm được gốc tích của những người đầu tiên đã lập ra các ngôi đình nầy.  Trong thâm tâm tôi tin rằng thuyết của cụ Rở là đúng.
Sau các ngôi đình, các cơ sở tôn giáo quan trọng khác của khu Đakao là chùa Cô Hồn ở đường Trần Quang Khải, chùa Ngọc Hoàng ở đường Phạm Đăng Hưng và Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo ở đường Hiền Vương.  Trong ba cơ sở nầy, chùa Ngọc Hoàng là cổ nhứt.  Ngay trong thập niên 50 lúc tôi còn nhỏ thì chùa nầy đã có được nữa thế kỹ rồi.  Chùa Ngọc Hoàng có cơ sở khá lớn, cổng gạch, sân rộng và dài, lối đi lát gạch, bên trong sân có nhiều cây cối.  Vào hết phần sân ngoài rồi là lan can bằng gạch rồi đến phần sân trong hoàn toàn lát gạch, có nhiều cây kiểng, và đặc biệt ở góc bên tay phải có một hồ nhỏ nuôi rùa và cua đinh, mặt hồ hoàn toàn phủ rong xanh, vách và thành hồ bằng đá cũng đầy rong rêu, trông rất cổ kính.  Trước khi vào bên trong chùa, hai bên cửa có hai tượng Ông Thiện và Ông Ác to gần bằng người thật, đứng cầm gươm, màu sắc rực rỡ.  Bên trong chùa lúc nào cũng âm u và khói nhang nghi ngút, thú thật tôi chỉ dám đứng ở ngoài cửa nhìn vào mà thôi, chưa bao giờ tôi dám bước vào bên trong.  Tôi chỉ thích đứng chồm mình vào thành cái hồ ngoài sân để nhìn các chú rùa lâu lâu trồi lên mặt nước để thở.  Chùa Cô Hồn, cách không xa đình Phú Hòa, tuy gọi là chùa nhưng xem có vẻ giống cái đình nhiều hơn, không biết cất từ năm nào, có cổng gạch và sân gạch, về sau dường như có cho thuê phần sân để làm garage sửa xe hơi.  Chùa Cô Hồn thì tôi cũng có khá nhiều kỹ niệm.  Đó là nơi hàng năm vào dịp Rằm Tháng Bảy bọn con nít tụi tôi kéo tới xem cúng cô hồn, xem tượng Ông Tiêu làm bằng hoa lá, với cái lưởi le dài ra, đỏ lòm trông đễ sợ, và cũng để chờ tiết mục hấp dẫn nhứt sau khi chùa cúng xong: đó là màn màn nhào vô giựt bánh trái, giựt tiền trong chùa liệng ra sân (gọi là thí cô hồn).  Bánh trái thì đủ loại, nào chuối, nào khoai, nào đậu phộng nấu, nào bánh cúng, bánh cấp, bánh in, bánh ít.  Còn tiền thì chỉ là bạc cắt, một cắt, hai cắt mà thôi.  Đền thờ Đức Thánh Trần là mới nhứt trong ba cơ sở tôn giáo nầy.  Đền được cất lên sau năm 1954, bên ngoài đường Hiền Vương nhìn vào tưởng như chỉ là một căn phố với cổng sắt cao.  Sau khi vào cổng rồi là một lối đi lát gạch, bề ngang chỉ rộng độ ba mét, dài độ hơn mười mét.  Cuối lối đi nầy khách viếng thăm đền sẽ ngạc nhiên vô cùng khi đối diện với một sân gạch rất rộng nằm xéo qua phía bên tay phải, sân nầy hình chữ nhựt, mổi cạnh dài có đến trên hai mươi mét.  Cuối sân đó là điện thờ, nền lát gạch bông luôn luôn sạch bóng và sơn son thếp vàng rực rỡ.  Hàng năm đến ngày húy của Đức Thánh thì đồng bào đến lể đông vô cùng, bên trong khói nhang nghi ngút và chiêng trống đánh vang rền.
Khu Đakao còn một cơ sở tôn giáo nữa, tuy nhỏ nhưng mang nhiều nét độc đáo.  Đó là Miểu Nổi.  Đây là tên của người địa phương đặt cho cơ sở tôn giáo nầy, tên chính thức của nó là gì thì tôi không biết vì chưa bao giờ nghe nói đến. Đặt tên như thế vì đây là một cái miểu cất trên một cái cù lao nhỏ trên rạch Thị Nghè (rạch Thị Nghè là tên gọi trên bản đồ, người địa phương thì gọi là sông Cầu Bông).  Có thể đến Miểu Nổi bằng hai cách, hoặc theo một con hẽm nhỏ ở đường Trần Quang Khải, đi xuyên qua hết khu xóm Vạn Chài, ra tới tận bờ sông rồi dùng đò qua miểu, hoặc đi xuyên qua trại cưa Trần Pháp, ở dưới dốc Cầu Bông, về phía bên Bà Chiểu, độ hơn 100 mét, ra bờ sông rồi cũng dùng đò qua miểu. Miểu là nơi thờ một vị Thánh Mẫu, dân trong vùng thường chỉ gọi là Bà, nên cũng có khi người ta gọi cơ sở tôn giáo nầy là Miểu Bà.  Dân chúng trong vùng tin là Bà rất linh thiêng, cầu xin gì cũng được, nên suốt năm lúc nào cũng có đông người đến cúng vái, và vì thế Miểu Nổi lúc nào cũng ở trong tình trạng được chăm sóc, sơn phết tươi tốt.
Về phần đạo Thiên Chúa, ngoài hai ngôi thánh đường lớn, tuy không xa khu Đakao, nhưng khó có thể gọi là thuộc khu Đakao, Nhà Thờ Đức Bà Saigon (về sau được Toà Thánh La Mã nâng cấp lên hàng Vương Cung Thánh Đường), và Nhà Thờ Tân Định, còn phải kể đến các cơ sở đào tạo tu sĩ nằm trong khu Đakao.  Đó là Đại Chũng Viện Saigon và nhà Dòng Tu Kín, cả hai cơ sở nầy đều nằm trên đường Cường Để.
Ngoài những cơ sở tôn giáo thuần túy như vừa trình bày ở trên, khu Đakao còn có Đền thờ Quốc Tổ trong Thảo Cầm Viên (người Saigon thường gọi là Sở Thú).  Sau khi vào cổng chính của Thảo Cầm Viên, nhìn sang phía tay phải ta thấy ngay đền thờ Quốc Tổ.  Ngôi đền nầy có kiến trúc rất độc đáo, vuông vức, mổi cạnh khoảng 10 mét, dựng trên một mô đất cao, với mái cong, lợp ngói âm dương rất đẹp.  Mổi phía đều có bậc thềm đá dẩn lên đền, hai bên thềm có lan can hình rồng đúc xi măng và sơn phết rất đẹp.  Ngay trước mặt chính của đền là sân lát gạch, ỡ giữa có một bia đá.  Nhìn từ phía chính diện vào trong đền, bên tay phải, các đền chừng 5 mét có một tượng voi bằng đồng đen, theo bảng đề bên cạnh thì tượng voi nầy là do Vua Cao Miên tặng vào dịp khánh thành Sở Thú.  Chung quanh đền, bốn phía đều có cửa bằng gổ quý.  Đền chỉ mở cửa cho khách viếng vào ngày Chúa Nhựt thôi.  Bên trong đền là điện thờ sắp xếp như trong các ngôi đình, chia làm ba gian, với các giá dựng binh khí bằng đồng bóng loáng.  Hàng năm cứ đến ngày Giổ Tổ Hùng Vương đều có tổ chức lể rất long trọng tại đây.

Các Cơ Sở Văn Hóa Khác

Ngoài các cơ sở giáo dục và tôn giáo vừa kể trên, khu Đakao còn có nhiều cơ sở văn hóa quan trọng khác. 
Trước hết, đáng kể nhứt là Thảo Cầm Viên Saigon, tức Sở Thú.  Tọa lạc trên một vùng đất rộng hàng chục mẫu, mặt tiền là đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, một cạnh là đường Hồng Thập Tự, và mặt sau chạy dọc theo rạch Thị Nghè, Sở Thú là một trong những khu giải trí quan trọng của dân chúng Saigon, nhứt là vào ngày Chúa Nhựt.  Sở Thú thời Pháp thuộc gọi là Jardin Botanique (nghĩa là vườn bách thảo), sang thời Cộng Hòa đổi ra tên Việt, gọi là Thảo Cầm Viên, nhưng đối với người dân Saigon thì truớc sau vẩn gọi là Sở Thú. Theo ý kiến riêng của tôi thì cả ba tên gọi nầy, hai tên chính thức, một tên nôm na, đều không diển tả được hết nội dung của khu vườn nầy.  Tên Pháp thì hoàn toàn chỉ nói về cây cối là sai, vì trong vườn có nuôi rất nhiều loại thú khác nhau.  Tên Việt chính thức cũng không hoàn toàn đúng vì chỉ nói đến cây cối và chim, bỏ ra ngoài các loài thú.  Tên Việt nôm na thì chỉ nói tới thú, bỏ qua hết cây cối, bông hoa.  Tuy nhiên phải công nhận một điều là tên Sở Thú có vẻ sát với thực tế nhứt, vì phần đông khách vào Sở Thú là để xem thú nhiều hơn là xem cây cối.  Sau khi vào cổng chính, du khách sẽ thấy ngay trước mặt mình một con đường tráng nhựa rất rộng xe hơi có thể chạy được, chia làm hai đường, một đường để vào, một đường để ra, phần chính giữa còn khá rộng có những bồn hoa đủ màu.  Ngay đầu con đường nầy, bên tay phải là Đền Thờ Quốc Tổ (đả kể ở trên), bên trái là Viện Bảo Tàng Saigon (sẽ nói đến sau).  Con đường nầy chạy dài, thẳng tắp độ 200 mét thì hết, đụng vào con đường chạy dọc theo rạch Thị Nghè.  Ngay tại ngả ba nầy là một sân khấu lộ thiên nhỏ, có tam cấp đi lên, hai bên viền lại bằng các giàn bông giấy đủ màu trắng, đỏ, và tím.  Đây chính là nơi hòa nhạc công cộng vào các ngày lể hay Chúa Nhựt để giúp vui cho du khách.  Ở vào khoảng giữa con đường lớn nầy có một ngả tư.  Con đường cắt ngang, nếu ta rẽ về bên tay phải, sẽ dẩn ta vào khu trung tâm của Sở Thú, nơi có chuồng khỉ, hầm gấu, chuồng chim, két,  và, đặc biệt nhất, là một hồ sen rất lớn, ở giữa có nhà thủy tạ hình bát giác có cầu gổ từ trong bờ đưa ra.  Hồ sen nầy, từ thập niên 60 trở đi có nuôi nhiều cá chép Nhật Bản đủ màu rất đẹp.  Rời khu vực hồ sen ta sẽ đến khu chuồng cọp, sư tử và dã nhân.  Sau đó bọc vòng trở lại bờ sông thì có chuồng voi và nai.  Từ bờ sông gần chuồng voi có một cây cầu lớn dẩn qua khu Thị Nghè.  Chính trên cây cầu nầy đã xảy ra vụ tai nạn làm chết nhiều người trong thời gian Hội Chợ Thị Nghè trong thời Đệ Nhứt Cộng Hòa.  Ngoài các loại thú, Thảo Cầm Viên cũng có trồng nhiều kỳ hoa dị thảo, và có cả một khu nhà kiếng cho các loại phong lan. 



Công trước Thảo cầm viên



Đền thờ vua Hùng trong Thảo cầm viên

Đến Thảo Cầm Viên mà không vào viếng Viện Bảo Tàng sẽ là một điều đáng tiếc.  Viện Bảo Tàng, như đã nói ở trên, nằm ngay bên phía tay trái khi bước vào cổng chính của Sở Thú.  Thời Pháp thuộc Viện Bảo Tàng mang tên Pháp là Musée Blanchard de la Brosse.  Trong thời Cộng Hòa, cố học giả Vương Hồng Sển đã làm Giám Đốc viện trong khoảng 10 năm.  Tôi xin mạn phép mở một đấu ngoặc nhỏ ở đây để ghi lại đôi dòng kỹ niệm về vị thầy khả kính vừa khuất bóng. Năm thứ hai ở Đại Học Sư Phạm Saigon, niên khóa 1961-1962, anh chị em Ban Sử Địa chúng tôi được may mắn học môn sử Việt Nam với thầy Vương Hồng Sển.  Ngoài việc dạy môn chính khóa nầy, thầy còn kể cho chúng tôi nghe những nghiên cứu của thầy về đồ sứ men lam Huế mà thầy là chuyên gia số một của thế giới.  Tôi còn nhớ mãi hai câu thơ thầy đã ngâm cho chúng tôi nghe khi nói về chiếc dĩa Mai Hạc: 

                           " Nghêu ngao vui thú yên hà
                       Mai là bạn củ, Hạc là người quen"

Tôi xin được đóng dấu ngoặc lại ở đây.  Xin mời độc giả trở lại Viện Bảo Tàng.  Viện Bảo Tàng là một toà nhà lớn, dài, sơn trắng, xây trên một nền cao.  Bên trong chia làm nhiều phòng, mổi phòng dành riêng cho một giai đoạn lịch sử hay một nền văn minh, chủ yếu là các cổ vật của nước ta và các quốc gia trong vùng như Chiêm Thành, Phù Nam, Chân Lạp.  Đáng chú ý nhứt có lẻ là phòng trưng bày các cổ vật của nền văn minh Óc Eo, đào được tại Long Xuyên trong thập niên 40, đặc biệt là hai đồng tiền cổ La Mã thời Hoàng Đế Marc Aurèle, chứng tỏ Vương Quốc Phù Nam xưa đã có những trao đổi hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các thương nhân Ả Rập?) với Đế Quốc La Mã. 
Một cơ sở văn hóa quan trọng khác, trong đầu thập niên 60, là Viện Khảo Cổ, cũng nằm ngay trên đường Nguyễn Bĩnh Khiêm, đối diện với Sở Thú (từ cuối thập niên 60 trở đi Viện Khảo Cổ mới dời về đường Gia Long, đối diện với Bộ Kinh Tế).  Khi tôi học năm thứ nhứt tại Đại Học Sư Phạm Saigon, thầy dạy môn Phương Pháp Sử của chúng tôi là Giáo Sư Trương Bữu Lâm, lúc đó là Giám Đốc Viện Khảo Cổ.  Trong năm học thầy Trương Bữu Lâm tổ chức cho anh chị em sinh viên chúng tôi vào viếng Viện để được nghe thuyết trình về công tác của Viện, và chính tại đây tôi đã được lần đầu tiên nhìn thấy tận mắt một chiếu chỉ của triều Lê Thánh Tôn, lồng kính treo trên tường trong phòng làm việc của thầy.
Ngoài các cơ sở văn hóa quan trọng vừa nêu trên, khu Đakao còn có khá nhiều rạp hát, cả cho bộ môn hát bội, cải lương và chiếu bóng.  Về môn hát bội thì rạp hát chính là những ngôi đình mà tôi đã có kể qua ở phần trên.  Về cải lương thì có rạp Thuận Thành ở đường Paul Bert (Trần Quang Khải, về sau bị phá đi để xây rạp chiếu bóng Văn Hoa) là nơi đóng quân của đoàn Phụng Hảo, và một rạp nữa trên cùng một đường mà tôi không còn nhớ tên và là nơi đóng quân của đoàn Bích Thuận. Về chiếu bóng thì có rạp ASAM và Casino Đakao cùng nằm trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng), và rạp Nam Tân trên đường Dr. Angier (Nguyễn Bĩnh Khiêm).  Sang thập niên 60 chỉ còn lại rạp Casino Đakao, sau năm 1975 đổi tên lại gọi là rạp Cầu Bông.

Các Món Ăn Ngon Khu ĐaKao

Nói về văn hóa mà không nói đến các món ăn thì có phần thiếu sót, vì ăn uống cũng là một phần khá quan trọng trong đời sống văn hóa của một dân tộc.
Sau đây tôi xin lược kể ra các món ngon nổi tiếng của khu Đakao.  Trước hết xin kể về các món ăn của người Việt. Khu Đakao nổi tiếng về các món ăn sau đây: cơm tấm, bánh cuốn, và bánh mì thịt.  Về cơm tấm thì có hai tiệm.  Tiệm thứ nhứt nằm trong đường Nguyễn Phi Khanh, không có bảng hiệu, nhưng khách ăn quen thường gọi là Cơm Tấm Bà Ba Liên, theo tên bà chủ tiệm.  Cơm tấm tiệm nầy ngon nhờ gạo ngon, nấu khéo, hột cơm rời nhưng không khô, bì nhiều thịt ít da và luôn luôn tươi (vì khách ăn tới đâu thì bà chủ mới xắc tới đó), và nước mắm thì pha đậm (lại bằng nước mắm hạng ngon) nên không cần chan nhiều.  Tiệm nầy chỉ bán có hai loại, cơm tấm bì, và cơm tấm bì chả, miếng chả rất ngon vì chắc chớ không bời rời và nhiều thịt cua.  Dĩ nhiên tiệm cũng bán luôn cà phê phin đen và sửa, nhưng cà phê nầy chỉ thuộc loại xoàng.  Tiệm thứ nhì theo tôi nhớ cũng không có bảng hiệu nhưng ai cũng gọi là Cơm Tấm Hiền Vương vì nằm trên đường Hiền Vương, gần tới ngả tư Hai Bà Trưng.  So với tiệm Bà Ba Liên, cơm tấm tiệm nầy không ngon bằng, nhưng không khí và giá cả có vẻ bình dân hơn.  Cơm tấm tiệm nầy thì nhiều loại hơn, cơm tấm bì, cơm tấm bì chả, cơm tấm bì hột gà, cơm tấm bì nem chiên.  Miếng chả tiệm nầy thì thua xa tiệm Bà Ba Liên, vì chỉ có trứng và thịt heo chớ không phải làm bằng thịt cua.  Món ngon của tiệm nầy chính là cơm bì nem chiên, với mấy chiếc nem Lái Thiêu chiên mở vàng ngậy, thơm lừng.  Cà phê tiệm nầy thì uống cũng được mà không uống cũng không có điều gì đáng tiếc.  Về bánh cuốn thì phải nói là rất nổi tiếng, đó là bánh cuốn Tây Hồ.  Hàng bánh cuốn nầy thật ra không có tên, người ta gọi như thế là vì lúc mới ra hàng nầy đặt cơ sở trong sân của Đền thờ Cụ Tây Hồ Phan Châu Trinh ở bên cạnh chợ Đakao.  Sau 1975, cửa hàng dời ra một căn phố nhỏ đường Đinh Tiên Hoàng, gần ngả ba với đường Huỳnh Khương Ninh.  Bánh cuốn Tây Hồ ngon nhờ cuốn ăn liền tại chổ, bột rất mõng, nhưn ngon vì làm bằng thịt heo tươi, trộn nấm mèo và củ hành xắc nhuyễn, nước mắm chanh pha rất loãng nhưng vừa miệng nên có thể chan nhiều.  Về bánh mì thịt thì nổi tiếng nhứt là xe Bánh Mì Bảy Quan, đặt tại ngả ba Đinh Tiên Hoàng và Huỳnh Khương Ninh.  Nét đặc biệt của xe bánh mì nầy là không bán vào buổi sáng, mà chỉ bán vào ban đêm, từ 6 giờ chiều trở đi.  Cái ngon của bánh mì Bảy Quan là một tổng hợp của nhiều đặc điểm:1) bánh mì luôn luôn nóng dòn (do được nướng lại trên một cái lò than đằng sau chiếc xe), 2) bánh mì được phết một lớp mõng sauce mayonnaise, 3) sau đó được phết thêm lên trên một lớp ba tê gan, 4) thịt ba chỉ (cuộn lại, cột chặt bằng dây, và có nhuộm phẩm đỏ bên ngoài) luôn luôn mới mổi đêm, và 5) kèm theo là đồ chua (củ cải trắng và cà rốt xắc cộng dài và ngâm dấm), dưa leo và mấy cọng ngò tàu tươi xanh.  Về sau nhiều người cũng nhái theo công thức nầy và ra nhiều xe bánh mì khác, cũng có tiếng, nhu Ba Lẹ, Bé Bự, nhưng vẩn không tài nào giựt nổi khách của Bảy Quan.
Về món ăn Tây, thì khu Đakao, như có nói qua trong Phần Thứ Nhứt về các con đường, có khá nhiều nhà hàng cơm Tây khá nổi tiếng, tất cả đều nằm trên đường Albert 1er (Đinh Tiên Hoàng).  Nhà hàng lâu đời nhứt trong khu Đakao là nhà hàng Casino Đakao, đối diện với rạp chiếu bóng có cùng tên, và cũng là nhà hàng cơm Tây đầu tiên của cả Saigon có bán Repas Complet với ba món và với một giá tiền nhứt định.  Các món nổi tiếng của nhà hàng nầy là Soupe à l'Oignon, Poulet Marengo, và Homard Thermidor.  Soupe à l'Oignon (súp hành) dựng trong tô lớn bưng ra múc vào dĩa cho khách, rất nóng, thành phần gồm có củ hành tây xắc khoanh và chiên vàng, fromage Gruyère bào nhuyển, và mấy miếng ruột bánh mì, trong một thứ nước súp rau cải ngọt lịm.  Poulet Marengo (Gà Marengo) là một món gà (thường là cái đùi) chiên vàng, thả vào trong một thứ nước sốt rất sệch có pha sửa và có đủ thứ đồ bổi như cà rốt, khoai tây, và cà mấy khoanh bánh mì nữa.  Homard Thermidor (Tôm hùm Thermidor) là món tôm hùm làm bằng thịt tôm hùm trộn với fromage, dồn trở lại vô vỏ tôm, rồi đút lò.  Một nhà hàng cơm Tây khác là Chez Albert thì nổi tiếng với hai món ngon, Salade Russe au Crabe và Chateaubriand.  Salade Russe au Crabe làm bằng các loại cà rốt, khoai tây, đậu Hòa Lan, tất cả xắc vuông nhỏ, trộn sauce mayonnaise và thịt cua, món nầy ăn rất ngon nhưng không ăn nhiều được vì quá béo nên mau ngán. Chateaubriand là một loại steak cao cấp, làm bằng một miếng thịt bò rất dầy, nhưng rất mềm, ăn kèm với khoai tây chiên.  Một nhà hàng cơm Tây nữa nổi tiếng với món Bouillabaisse là nhà hàng La Cigale (Con Ve Sầu), ở gần ngả tư với đường Richaud (Phan Đình Phùng).  Bouillabaisse là món đồ biển, gồm có nhiều loại tôm, cá, cua, ốc, mực, ăn với một loại nước chấm đặc biệt.  Món nầy ngon hay dở là do nước chấm đó, nghe nói làm rất công phu, món nầy xuất phát từ vùng Marseille của Miền Nam nước Pháp.  Một nhà hàng cơm Tây khác nữa là nhà hàng Duy Ban, đối diện với Chez Albert, cũng nổi tiếng, nhưng có lẻ nổi tiếng là do khung cảnh (rất lịch sự, trang nhã) hơn là món ăn, vì tôi không còn nhớ món nào là món ngon của nhà hàng nầy cả.
Về món ăn của người Hoa thì dĩ nhiên, không nói ai cũng biết, đó là mì Cây Nhản.  Tiệm mì nầy mang cái tên dễ nhớ đó là vì đặt cơ sở trong sân một ngôi nhà xưa, đối diện với trường Tiểu Học Đakao, có một cây nhản rất lớn.  Mì Cây Nhản ngon nhờ một thứ nước sốt đặc biệt, làm bằng thịt heo xoay nhuyển, vừa ngọt, vừa béo, vừa thơm.  Sau khi nấu mì xong cho vào tô, trước khi đổ nước lèo vào, thì nước sốt nầy được chan một ít lên trên mặt vắt mì.  Nước sốt nầy như thế sẽ thấm vào cọng mì, và sau đó tan vào trong nước lèo luôn, làm thành cái vị đặc biệt mà không có tiệm mì, xe mì nào có được.  Tiềm mì nầy, sau năm 1975, dời ra ngoài xa lộ, cách cầu Phan Thanh Giản chừng vài trăm mét.



         Đường Đinh Tiên Hòang hướng về đường Hiền Vương và rạp Casino Đa Kao



              Đọan từ cầu Phan Thanh Giản về ngả tư Đinh Tiên Hòang - Phan Thanh Giản

Nói đến chuyện ăn uống ở Đakao mà không nói đến tiệm Cà phê Thái Chi sẽ là một thiếu sót lớn.  Dân sành điệu chuyên uống cà phê phin ở Đakao, và có lẻ một phần khá lớn dân ghiền cà phê phin của Saigon, ai mà không biết tiệm cà phê Thái Chi nầy.  Nằm ngay sát đầu đường Nguyễn Phi Khanh, tiệm cà phê nầy đặt cơ sở trong một căn phố nhỏ xíu, bề ngang chừng hơn ba mét, còn bề sâu vô chắc chừng hơn hai mét thôi, trong tiệm chỉ đặt được chừng ba hay bốn cái bàn gổ nhỏ, thấp lè tè, ghế thì toàn là ghế đẩu.  Tuy nhiên đừng vì cái bề ngoài lôi thôi nầy mà bị lầm.  Cà phê phin tiệm nầy có thể xếp vào hàng ngon nhứt của cả thành phố Saigon, theo ý kiến riêng của cá nhân tôi, thì còn ngon hơn cả cà phê phin Gió Bắc một thời lừng danh ở đường Phan Đình Phùng, trong khu Bàn Cờ.  Chủ nhân là một cặp vợ chồng sồn sồn (hồi thập niên 60, bây giờ không biết còn sống hay không) người Bắc di cư năm 1954 không có con cái gì cả.  Cà phê tiệm nầy ngon nhờ làm toàn bằng cà phê loại ngon của Ban Mê Thuột, do chính chủ nhân rang, ướp, và xay một cách đặc biệt nên hương vị vô cùng đậm đà, khi phục vụ khách thì dùng những phin rất tốt, pha thật đậm đặt, nên uống vô thì "phê" vô cùng.  Tiệm nầy hiện nay vẩn còn ngay tại địa điểm nầy, nhưng khách thì đông hơn gấp bội, vì tiệm bày thêm rất nhiều bàn ra ngoài lề đường luôn.  Điều nầy đã một lần nữa xác định tiệm Cà phê Thái Chi của khu Đakao quả là "danh bất hư truyền".                  

Thay Lời Kết


Qua sự trình bày trên chắc bạn đọc cũng khó mà không đồng ý với tôi rằng khu Đakao quả thật là một trong những cái nôi văn hóa quan trọng của thành phố Saigon.  Nó là một trong những vùng đất được định cư từ lâu đời nhứt của Saigon, với một mật độ tập trung văn hóa rất cao về nhiều mặt: giáo dục, tôn giáo, bảo tàng, văn nghệ, và cả ẩm thực nữa.  Ước mong sau nầy sẽ có những công trình địa phương chí nghiên cứu nghiêm chĩnh vùng đất nầy để trả lời cho những thắc mắc mà đến nay vẩn chưa được giải đáp thỏa đáng như: nguồn gốc của địa danh Đakao và Đất Hộ, tại sao có quá nhiều đình trong một khu vực nhỏ hẹp như vậy, ai là những người dân đầu tiên khai phá vùng đất nầy.




  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...