Thứ Bảy, 9 tháng 1, 2021

 

Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)


CHƯƠNG VIII

Ðề cương:

 

Cục diện Nam Kỳ miền duới sau khi thành Kì hòa và thành My-thô bị mất. - Chỉnh đốn binh bị. - Tổ chức dân sư.

Chiến thắng Kì hòa và Mỹ-thô gây tiếng vang vô cùng rộng lớn trên toàn cỏi Á - châu. Bọn phưu lưu dẫy đầy trên các vùng biển nước Tàu kéo nhau đổ đến Saĩgon, từ dân miền núi Fo-kien, dân đảo Hải nam, dân Quảng đông, dân Ả rập, Ấn độ, cho đến dân các bộ lạc Karing và Xong. Bọn phưu lưu người Âu châu tại Shang-haĩ, Hong-kong, Batavia[1] và Manille vì còn e ngại các cuộc biểu dương lực lượng quân sự còn có thể xảy ra nên vẫn đứng xa chờ đợi. Người An nam bị rúng động mạnh. Họ nhiều lần khoe khoan với triều đình Xiêm la và Cao miên là người Pháp không thắng họ được, họ thường dẫn chứng các trận đánh ở Touranne[ 2] như là các chiến thắng vẻ vang của họ, tuy có những lần tạm thời thua chạy nhưng không phải vì thế mà họ thất bại[3] Vị phó vương An nam cho các quan chức của hai tỉnh vừa bị mất hay rằng ông không thể ra lịnh gì cho họ cả trước khi có sự chuẩn y của triều đình Huế. Từ nghìn xưa đến giờ vẫn thế, cứ mỗi lần có sự xáo trộn ở Nam kỳ miền dưới là giặc cướp xuất hiện khắp nơi; tình trạng xã hội tại hai tỉnh lỵ xinh đẹp của ta là Saĩgon và My-thô lâm vào mối nguy bị tan rã là vậy.

Trong hoàn cảnh đó, vị tổng tư lịnh nghĩ rằng nên tạm thời ngưng việc chinh phạt, nếu không muốn trông thấy phần lãnh thổ đã lọt vào tay ta lâm vào cảnh điêu tàn. Quân sĩ đã kiệt lực, thương vong quá nhiều do dịch tả, sốt rét, kiết lỵ; mùa mưa biến Nam kỳ miền dưới thành một vùng lầy lội mênh mông, hồ ao rải rác khắp nơi; quả thật là những lý do mạnh mẻ để ngưng việc đánh chiếm thêm. Ðây là lúc mà người Pháp phải tự xử lý những hậu quả do chính mình gây ra sau khi chiếm đoạt một vùng lãnh thổ ba ngàn dậm vuông và đuổi hết những người cầm quyền cũ. Sau đây là lời một vị hoàng đế Ðông phương đã nói với một vị thái thú Trung đông: ‘’Ông nghỉ rằng tôi có thể đứng từ xa để cai trị được không? Tại sao các ông đến đây để chinh phạt chúng tôi, mà lại không cai trị nổi chúng tôi?’’ Tất cả phương châm của chiến tranh chinh phạt đều nằm trong nét dễ hiểu này.

Vì vậy các cuộc hành quân đều ngưng lại, các hoạt động quân sự được giới hạn trong khu vực lãnh thổ thuộc hai tỉnh đã chiếm mà thôi. Thành Kì hòa bị san bằng đã trả lại cho con sông Don-naĩ một quang cảnh tuyệt vời; đối với sông Cambodge, sau khi thành My-thô đã bị chiếm, quang cảnh cũng trở lại như xưa Ðó là hai con sông tuyệt đẹp, mà ta hoàn toàn chủ động dễ dàng với những phương tiện sẵn  có. Tuy nhiên, sông không thể so sánh với núi hay sa mạc trên phương diện biên thùy, nhất là trong một xứ mà người dân rất thích sống lưu động trên sông nước. Thật ra thì vùng Lưỡng Hà [4] này mới chỉ bao gồm có tỉnh Bien-hoa, giữa Nam kỳ miền dưới và lãnh thổ Huế còn có cả một vùng núi non làm biên giới thiên nhiên. Ta chỉ có thể so sánh nơi đây là vùng Lưỡng Hà khi nào chiếm hết toàn thể lãnh thổ mà thôi. Xâm chiếm tức khắc không thể thực hiện được vì các lý do vừa kể: quân lính kiệt lực, mùa mưa và tình trang hổn loạn hiện nay.

Cũng đúng lúc để ta đặt lại vấn đề có nên đánh chiếm thành Bien-hoa hay không và nếu đánh gục đường tuyến địch trên sông Don-naĩ để đặt đầu cầu trên đất địch, tức là Bien-hoa, thì có lợi ích như thế nào? Ðánh chiếm vị trí này để mở đường lên phía bắc, thì quả là người An nam sẵn sàng dưng cho ta, chỉ cần báo trước họ là đủ; nhưng vào thời điểm này chỉ là một chiến thắng quân sự vô nghĩa. Một khi đánh chiếm Bien-hoa sẽ đưa tới hai quyết định ta phải chọn: hoặc là tàn phá hết vị trí này hoặc là chiếm giữ. Giải pháp thứ nhất đưa đến một hậu quả vô bổ; giải pháp thư hai đưa đến một hậu quả nguy hại.

Vậy thì Bien-hoa là gì? Là vỏn vẹn một vị trí ranh giới. Ví như chúng ta phá hủy Bien-hoa, người An nam sẽ rút về hậu tuyến, tức trên đường ra Huế, như thế họ lọt ra ngoài tầm kềm tỏa của ta. Hiện nay là mùa rất thuận lợi cho việc đào xới. Ta có thể tin rằng họ sẽ chờ ta đánh và dành cho ta những bất ngờ bằng cách đào hào đắp lũy cố thủ với các chướng ngại phòng ngự phụ thuộc mà họ thành thạo một cách phi thường. Tóm lại chẳng có lợi gì cho ta cả.

Còn nếu ví như ta chiếm giữ vị trí này. Bien-hoa sẽ trở thành một đầu cầu của ta nằm hẳn trên đất địch, nhưng lại hoàn toàn cô lập. Nếu chúng ta muốn phong tỏa nhanh chóng Bien-hoa, cũng như phong tỏa Saĩgon trước kia, thì cần có năm trăm quân, một số đồn nhỏ để nối liền với tỉnh Gia-dinh, một số pháo hạm để làm chủ trên nhánh sông Bien-hoa. Tất cả những chuyện này cũng chỉ để xua quân An nam được bốn đến năm dặm trên đường ra Huế, chẳng có ích lợi gì thêm cho phần lãnh thổ thuộc địa của ta đã chiếm.

Theo ý kiến chung cũng như theo nguyên tắc quân sự thì trong hoàn cảnh như thế ta nên chú ý vào bối cảnh toàn diện hiện nay mà không nên để ý đến khía cạnh riêng của một vấn đề; vì vậy không thể nào có quyết định gởi một đạo quân viễn chinh đi đánh Biên-hòa. Sông Don-naĩ là một biên giới tạm thời; hữu ngạn thuộc về ta, tả ngạn thuộc người An nam trừ ra hai vị trí trên tả ngạn ta phải giữ: một là ngôi làng thiên chúa giáo nằm đối diện với Saigon, hai là Fou-yen-mot do ta trang bị mạnh mẽ để kiểm soát toàn vùng. Làng thiên chúa giáo trung thành với ta, bảo vệ họ là chính đáng và rất đúng trên phương diện chính trị. Fou-yen-mot dùng để canh chừng toàn xứ, và cũng là nơi ta lấy gỗ để bán; ngoài ra khi cần thiết ta sẽ xuất quân từ đây để đánh bọc hậu vào phía bắc Bien-hòa khi cần chiếm vị trí này.

Ðể khống chế toàn lãnh thổ ta thiết lập hệ thống bố trí quân sự như sau:

Thành lập một đường tuyến chiến lược chắc chắn từ đồn Testard, các đồn Tong-keou, đồn Oc-moun, đồn Tay-theuye cho đến thành Tay-ninh, các đồn lũy liên đới hỗ trợ với nhau, kéo dài từ Saĩgon dọc theo biên giới giữa Nam kỳ và vương quốc Cao-miên. Sông Don-naĩ sâu, tàu bè cở lớn có thể lưu hành dễ dàng vào sâu tới sáu mươi dặm trong đất liền kể từ bờ biển; trên sông tấp nập tàu bè chuyên chở lớn nhỏ, hộ tống hạm, pháo hạm. Như thế kể như tại tỉnh Saĩgon và mặt giáp ranh với tỉnh Bien-hoa ta có hai đường tuyến quân sự, hỗ trợ nhau và cách nhau từ năm đến tám dặm. Ðường tuyến thứ nhất gồm các lực lượng lưu động trên sông, có khả năng hiện diện khắp nơi; có thể đặt đại pháo ở hàng trăm vị trí khác nhau để nhắc nhở cho quân thù là bất cứ một manh nha khởi nghĩa nào cũng sẽ bị quân sĩ tăng viện của ta đến tận nơi để trừng trị. Ðường tuyến thứ hai gồm có thành đồn trải dọc song song với sông Don-naĩ. Về phía sông Cambodge, My-thô là trại quân lớn và ta có cả một hạm đội canh chừng mạnh mẽ khắp phần tứ giác phía đông và phía tây, kiểm soát tất cả kinh rạch và sông Cambodge. Quân sĩ hành quân ngoài Saĩgon lên tới 1 425 người, như thế ta đã chiếm tối đa diện tích lãnh thổ mà ta có đủ sức để giữ.

Nếu như quân An nam dám mạo hiểm để tấn công ta thì cách bố trí vừa thấy đủ sức chống lại họ. Bị đẩy lui về Bien-hoa quân An nam thấy phía sau quân ta có thể dồn lại dễ dàng bất cứ chỗ nào để đánh tan họ nếu họ có ý muốn tấn công. Cho đến bây giờ, nếu ví như ta chưa đủ sức ngăn chận các cuộc hành quân từ Huế vào, thì đã có các biên giới thiên nhiên giữa Nam kỳ miền nam và Nam kỳ miền trung bảo vệ: đó là vùng núi non xuất phát từ núi Vi. Phần đất của người Âu châu chiếm giữ dựa vào dãy núi đá, về phía nam thì có sông Cambodge làm ranh giới và ba tỉnh miền nam áng ngữ, không có gì phải sợ quân địch xua quân từ miền bắc; nhưng thực ra ta lại gặp phải nhiều khó khăn trong việc bình định phần lãnh thổ đã chiếm. Người An nam không để ta yên một lúc nào hết, họ dung túng giặc cuớp trong khắp Nam kỳ miền dưới [5] Các tỉnh Ha-tien, An-gian, Vinh-long phì nhiêu một cách kỳ lạ, họ hoàn toàn có thể tự túc được. Chỉ cần vỏn vẹn một vài hiệu lịnh của triều đình, một vài tuyên cáo, không hơn không kém là các tỉnh này sẽ lọt ra khỏi lãnh thổ thuộc địa tương lai mà ta hoạch định thiết lập cho nước Pháp. Ðiều khó khăn để ta biểu dương uy quyền của kẻ xâm lăng là bản chất thiên nhiên của toàn vùng, nơi này gồm hàng ngàn đường sông rạch có thể so sánh với một vùng Kabylie [6] đầy sông ngòi. Sông rạch tạo ra một hệ thống mạng lưới quá rộng lớn đầy kẻ hở không thể ngăn chận hết sự xâm nhập của người An nam

Khi toàn lãnh thổ rộng lớn từ bờ biển Tàu cho đến ranh giới Cao miên lọt vào tay ta, thì các quan chức của triều đình Huế từ các cấp tổng đốc, phou và huyen đều bỏ trốn hết; nhưng các chánh tổng, xã trưởng và các viên chức hội đồng xã đều ở lại làng của họ. Các điều khoản trong tuyên cáo của ta vào tháng ba và tháng tư 1861 bảo đảm luật pháp, tài sản và phong tục cho họ. Ta không vội gì áp dụng những công thức tuyệt vời của Tây phương mà chỉ nên bảo đảm tài sản sẵn  có, tìm cách tránh cho họ những thói xấu mà họ chưa hề biết, nhất là cứ để họ như trước, tức là người nông dân lo trồng lúa và đánh cá. Thật vậy, nếu có một đường hướng chung để giúp ta cai trị thì ta phải sớm khám phá ra nó, càng sớm càng hay, sau khi ta xâm chiếm Saĩgon và My-thô. Vị chỉ huy trưởng Pháp phải đối đầu với một dân tộc mà luật lệ của họ, phong tục của họ ông ta đều mù tịt; ngôn ngữ họ dùng là một trong ba ngôn ngữ của cả vũ trụ này mà khi nói lên thì giống như hát. Những người thông ngôn thì thiếu, hành chánh An nam bị nứt rạn, một nữa nhân viên đã bỏ trốn. Sau hết ta có thể xem như dân tộc An nam bị những người lãnh đạo của họ bỏ rơi, đang thèm khát tự do, sẵn sàng bảo vệ đức tin Thiên Chúa của mình [7] Ta phải công nhận khi bước chân vào sâu trong lãnh thổ Nam kỳ miền dưới, ta nhận thấy ngay dân chúng được nhào nặn theo lối uy quyền phụ hệ của Á châu. Ta cũng có ngay cảm giác là các quan chức Nam kỳ khác xa với các quan chức hành chánh hèn nhát và lạm quyền của Tàu. Về phần người theo thiên chúa giáo, trước đây thì họ trốn lánh; nhưng trên đường chinh phạt My-thô, khi các pháo hạm đem đến nhiều chiến thắng cho thấy người An nam càng ngày càng khó bảo vệ vùng tứ giác, thì họ ra mặt ngay và biến những người ngoại đạo thành một thứ nô lệ [8] Trong số quân sĩ của thành Kì hòa và My-thô, người nào không rút về Bien-hoa hoặc các tỉnh miền nam Cao miên thì làm giặc cướp để sinh sống; sau đó họ lại trở về đầu quân và gây thêm nhiều lẫn lộn và bối rối cho ta. Chỉ cần những xáo trộn thật nhỏ cũng có thể nguy hại đến phong tục của một dân tộc, dân Nam kỳ miền dưới gánh chịu nạn cướp bóc là thế. Trong những ngày đầu, sau tiếng sét giáng xuống thành Kì hòa, một mối kinh sợ bao trùm tâm hồn người An nam. Nổi kinh hoàng bị người Âu châu xâm chiếm họ giữ kín không nói ra; các làng mạc xin đầu thú và xin ta cử người cai quản. Trước bộ tham mưu của ta, các xã trưởng và chánh tổng nối đuôi nhau không ngớt. Họ quỳ gối và dập đầu để thỉnh nguyện, theo cái tư thế tuy đã thành khuôn mẫu ở Á châu, nhưng lại va chạm mạnh đến quan niệm của người Âu châu về nhân phẩm con người. Bằng một dọng như cầu kinh của người An nam, họ vừa run vừa cầu khẩn ta đừng bỏ rơi dân chúng trong thôn xã của họ và bày tỏ sự sợ hải giặc cướp hoành hành.

Hoàn cảnh đặc biệt đó cho thấy ngay các quyết định ta phải làm. Ngay trước mắt là cơ cấu thị xã của họ ta phải giữ nguyên một cách cẩn thận. Các cấp bực của triều đình Huế, như tổng đốc, tỉnh trưởng, quận trưởng đều trốn hết, phần sợ hãi người Pháp phần vì trung thành với hoàng đế An nam. Vị chỉ huy trưởng của ta đưa một số sĩ quan đến những nơi còn bỏ trống để làm đại biểu cho mình bên cạnh dân chúng An nam. Vai trò của họ đối với dân An nam vừa chinh phục xong cũng giống như các đại biểu gọi là Missi Dominici [9] ở thế kỷ thứ mười tám. Một số mang chức phou, một số mang chức huyen. Họ vẫn dùng lại ấn dấu của người An nam, vì dưới con mắt người Á châu điều này rất hệ trọng. Chức vị của các đại biểu hoàn toàn có tánh cách dân sự; nhưng họ có thể trưng tập quân đội được cử bên cạnh để trợ lực cho mình và để bảo đảm uy quyền. Vì vậy ở mỗi tỉnh, mỗi quận đều có một vị chỉ huy quân sự và nhân viên dân sự. Các ông phou và các ông huyen cứ mỗi tám ngày là phải phúc trình với vị chỉ huy trưởng về tình hình trên toàn xứ. Ranh giới lãnh thổ vẫn giữ nguyên như trước, các vị đại biểu chỉ huy các cơ quan An nam vừa kể không được vượt quá giới hạn các thành phố và làng mạc đã qui định trong khu vực của mình.

Việc cử người đại diện cho chính quyền Pháp trong vòng tứ giác từ phía đông do biển bao bọc cho đến biên giới sát với nước Cao miên cũng chẳng phải là việc khó khăn gì; cái khó là họ không biết tiếng An nam mà phải đối đầu với những trường hợp phản bội và những người thông ngôn chỉ biết nói bập bẹ.

Tại xứ này bắt buộc phải biết tiếng An nam và tiếng Tàu để giao dịch và viết lách văn thư, nhưng đó là những thứ ngôn ngữ ta không hiểu thấu nổi. Cần có sự cải tiến chung cho Á châu bằng cách đưa hai mươi bốn chữ cái vào ngôn ngữ của họ để làm sáng tỏ bất thần cả một thế giới huyền bí mà ta có thể bị gạt gẩm dễ dàng; tất cả đều quanh co, lắc léo. Trong số các rào cản mà Á châu dùng ngăn chận ta thì chữ viết là thành trì kiên cố nhất. Người Âu châu nào cũng khựng lại trước những chữ viết bằng dấu gẩy gập lại, giống như tâm trí con người sống ở cái phần đất này trên thế giới đã do ảnh hưởng chung quanh mà bị méo mó đi. Sách vở tiếng An nam ta có vào năm 1861 vỏn vẹn chỉ có một cuốn tự điển, giá bán khá đắt, gồm một vài ngữ vựng dịch ra bằng bốn thứ tiếng: muốn hiểu các ngữ vựng này thì phải biết tiếng la tinh, vì thế không thể nào phổ biến tiếng An nam một cách thỏa đáng cho quân sĩ nào của ta chỉ biết đọc qua loa. Vị chỉ huy trưởng liền cho phiên dịch gấp rút một sách ngữ vựng Pháp-Annam và Annam-Pháp: hệ thống dấu do cha Al. Rodes sáng chế ra được giữ nguyên để soạn sách ngữ vựng, hệ thống dấu dùng để xác định cách chuyển dọng trong một ngôn ngữ giống như hát mà không cần phải ghi chú thêm. Quyển sách này phải đem đi in tận bên Ấn độ:vì cách đánh dấu quá khó làm trở ngại rất nhiều cho việc ấn loát. Trong khi chờ đợi sách phổ biến, ở Saĩgon có hai trường học được thành lập, một dùng đào tạo thông ngôn, một dùng để dạy tiếng Pháp cho trẻ con An nam. Trường thứ nhất do một linh mục sẵn sàng chiếu cố giúp ta, ông này biết rành tiếng An nam, thật là một điều hiếm hoi, kể cả những người nói được ngôn ngữ này cũng không biết rành rọt được như ông. Ông buộc lòng phải ứng biến mà tạo ra một phương pháp giảng dạy khác hơn cách mà ông đã học, và ông đã vui lòng thực hiện việc này cho quân đội viễn chinh. Học trò của ông gồm một số sĩ quan và nhất là thủy quân và lính bộ có phép đặc biệt cho miễn công tác, họ là những người quyết tâm lưu lại luôn trong xứ. Hầu hết người Pháp nào kiên trì đeo đuổi việc học đều trở thành những người thông ngôn mà ta có thể tin được phần nào. Trường học tiếng An nam góp công giúp nền quản lý của Pháp thoát ra khỏi ảnh hưởng giáo điều Cơ đốc, vì các vị giám mục xem sự quản lý của Pháp là thiếu hạnh kiểm; có một danh từ la tinh đại khái ám chỉ điều này như một sự mưu mẹo, lạm quyền và tham nhũng giống như của châu Á.

Trường học tiếng An nam còn mang lại một điều tốt nữa. Hiểu biết một ngôn ngữ là phương tiện hay nhất để thấu hiểu phong tục của một dân tộc: muốn hiểu một chữ hay những cách nói lắc léo của một ngôn ngữ thì phải hiểu chữ này hay cách nói như thế được đem dùng vào những trường hợp nào. Vài chữ và vài cách diễn đạt đơn sơ nhất đã hé mở cho ta thấy phía sau cái vẻ đau buồn rộng lớn của người An nam là cả một thế giới ý tưởng vô cùng phong phú: nếu hiểu rằng người An nam cũng là con người thì sự hung bạo của ta sẽ bớt đi. Nhưng khi ta trừng phạt nặng nề những kẻ nào làm hại ta thì cũng là một việc dễ hiểu thôi. Khi ta biết được một chữ, ta thường hay lập đi lập lại;ta sẽ kính nể một dân tộc hơn khi ta có thể nói được ngôn ngữ của họ, nhất là một ngôn ngữ khó cực kỳ như vậy. Sau hết ta cũng tự lấy làm lạ có những người Pháp chịu rời bỏ xứ sở của mình để cùng sống với một dân tộc xa xôi; đương nhiên họ chấp nhận sẽ chết ở đây, cuộc sống lưu vong là mục đích của đời họ; điều lạ lùng này đã làm xúc động và sưởi ấm một vài con tim với một chút lòng từ thiện thiên chúa.

Mục đích của trường học thứ hai là dạy tiếng Pháp cho trẻ em An nam. Việc dạy tiếng Pháp mới có lần đầu trong xứ An nam: vì từ trước người An nam học ngoại ngữ chỉ gồm có tiếng la tinh và tiếng Anh. Giáo điều thiên chúa ở các tỉnh đều giảng bằng tiếng la tinh. Theo thông lệ hoàng đế Tự Ðức mỗi năm gởi mười lăm học sinh trẻ sang Singapour học tiếng Anh.

Tiếng An nam và tiếng Pháp đồng lượt được truyền bá là giai đoạn tối cần trong việc chinh phạt của ta, kết quả lại tạo ra một thứ ngôn ngữ chung giống như ngôn ngữ sabir [10] mà người Ý đã mang đến cho nước Thổ nhỉ kỳ. Nhưng phải nói rằng người Tàu tích cực hơn người An nam vì họ là những người đầu tiên được ta huấn luyện. Mỗi tối, người buôn bán ở Saĩgon và Cho-leun sau khi ghi chép sổ sách xong thì họ thay phiên nhau lập đi lập lại bài học mà họ gọi là học tiếng Pháp. Một vài thành ngữ quy ước và vài tiếng Mã lai cũng thường nghe nhắc đi nhắc lại trong các mẩu đối thoại dùng như những điểm chuẩn cho dể hiểu nhau. Việc chiếm đóng Canton [11] từ trước và sự sinh sống lẫn lộn giữa một ngàn năm trăm cu li người Tàu và quân đội Pháp cho thấy một vài dấu hiệu chứng tỏ bắt đầu có sự hiểu ý lẫn nhau. Củng như tất cả các dân tộc chọn chủ nghĩa hình thức, lễ độ là cả một khoa học xã hội; những thương gia từ khắp miền biển Tàu đổ về đây chăm chú nghiên cứu học hỏi cách ăn nói, cười hỏi, xã giao của các người lính thủy và lính bộ; quân lính của ta là những người duy nhất mà họ có thể gần gủi để tìm hiểu tập quán người Âu châu. Các dân tộc Á châu đều có tinh thần nhất quán trong cách suy luận: không có một thương gia nhỏ nhoi nào ở Saĩgon này mà lại không tin rằng mình đã đánh giá đúng nước Pháp sau khi mới tiếp xúc với một người dân Pháp duy nhất; nói một cách khác thì họ tin rằng một người cai và một vị đại tướng cũng đều có cùng một cách cư xử như nhau.

Vì thế đã phát sinh một ngôn ngữ chung, mặc dù ảnh hưởng của Anh ngữ cho đến nay vẫn hết sức là mạnh; ngôn ngữ chung đã phát sinh từ khi có hai mươi ngàn quân Pháp sang đánh bên Tàu và sau đó kéo xuống đánh chiếm Nam kỳ.

Một vài sĩ quan trong số người được cử nắm giữ các chức vụ hành chính chịu khó học tiếng An nam và nghiên cứu phong tục của người An nam. Nhưng sau những hung bạo của chiến tranh, việc học hỏi dù có đi chăng nữa cũng mang rất nhiều thiển cận. Tinh thần suy nghĩ bình đẳng thật là hiếm hoi; trong một vài trường hợp đặc biệt lắm mới có một người Âu châu chịu hạ cố mà nhìn xuống xem những gì đã xảy ra cho một dân tộc nổi danh man rợ, để đủ sức hy sinh mà trút bỏ định kiến có sẵn  của mình đối với họ. Vào thế kỷ mười bẩy và mười tám, vài người hiểu biết rộng rãi và nhiều nghị lực như Pallu du Ruault, giám mục Héliopolis, Pigneau de Behaine, giám mục Adran, đại tá công binh Victor Olivier không tin rằng họ đã hy sinh đời mình một cách vô ích để khai hóa cho người An nam. Thật quả họ là những người Pháp vĩ đại mà vết tích công trình vẫn còn đó, từ biển Tàu cho đến ranh giới tận cùng của đế quốc An nam! Họ biết cách làm lắng xuống cái ngạo mạn của một dân tộc khuấy động nhất và hiếu chiến nhất ở Á châu [12] Người An nam đều nghe họ. Nhưng tất cả những gì mà họ quan sát thấy đã theo họ mà mất mát khi họ vĩnh viễn ra đi Có lúc người Hòa lan và người Anh cũng làm như họ nhưng đều thất bại: ví dụ như Crawfurth và Mackensie chẳng hạn. Cho đến mãi gần đây, cũng chưa có ai biết rõ ràng về đặc tính nhân chủng của người An nam. Khi đi sâu và sống chung trong làng mạc của họ, giữa ruộng đồng và rừng rú của họ, ta mới nhận ra những nét đặc biệt của tánh tình người An nam; trước đây ta chỉ biết cơ cấu quản lý thôn xã, tổ chức hành chính và tánh khí đặc biệt chung của các dân tộc Á châu nơi họ mà thôi; trong đó gồm có sự kính trọng tập thể làng mạc và uy thế vương quyền. Một vài nét mà ta nhận thấy trên diện mạo và tính tình người An nam còn xa mới tượng trưng được bản chất toàn diện của họ; nhưng phải nói hẳn ra đó là duy nhất những gì mà ta có thể hy vọng đã quan sát được đúng. Hình như cũng có một sự trùng hợp nào đó trong những thiếu sót của chân dung người An nam mà ta không biết được; càng tìm cách xác định cho thật đúng, ta càng nhận ra một cách rõ ràng những điều ta chưa biết nơi họ. Nghiên cứu về đặc tính, diện mạo và tinh thần người An nam không phải là một chuyện vô bổ không hợp thời trong hoàn cảnh chiến tranh ở Nam kỳ như hiện nay: tìm hiểu tường tận về khả năng và phong tục của dân tộc An nam cho ta thấy một cách hùng hồn những thiếu sót mà người Pháp đã vấp phải.

[1] Batavia là Jakarta ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[2] Tức Ðà nẳng ngày nay, (ghi chú của người dịch).

[3] Xin mạn phép được nhắc lại là thủy sư đề đốc Rigault de Genouilly và vị cố vấn quân sự và chính trị của ông là Giám mục Pellerin sau khi đánh chiếm Ðà nẳng (1858), trông chờ vào việc nổi dậy của một số người An nam để tiếp tay đánh vào Huế, nhưng việc nổi dậy không sảy ra. Ðóng binh cố thủ tại Ðà nẳng, quân lính bị dịch tả, sốt rét, kiết lỵ đành phải bỏ nơi này để đánh Saigon (1859). Tại Saigon cũng không thấy ai nổi loạn, lại phải cố thủ chờ đại binh kéo từ Tàu sang (1861), (theo Stanley Karnow, Viêtnam, WGBH, 1983), (ghi chú của người dịch).

[4] Trong nguyên bản là Mésopotamie, tức vùng Trung đông nằm giữa hai con sông Tigre và Euphrate, thuộc I-rắc ngày nay. Một trong những nền văn minh sáng chói và lâu đời nhất của nhân loại (thế kỷ thứ VI đến thế kỷ thứ I trước Thiên Chúa) đã phát sinh ở đây; tổ chức làng mạc sinh và canh nông cũng đã phát triển tại vùng này từ những thế kỷ thứ IX đến thứ VII trước Thiên Chúa, (ghi chú của người dịch).

[5] Biết đâu cũng có du kích lẻ tẻ lẫn lộn với giặc cướp khắp nơi ? (ghi chú của người dịch).

[6] Kabylie là một vùng núi non thuộc bắc Algérie, rất khó kiểm soát, hầu hết do sắc dân Berbère cư trú, họ luôn luôn nổi dậy và yêu sách quyền bảo tồn văn hóa và ngôn ngữ của họ, (ghi chú của người dịch).

[7] Những người nông dân An nam chất phác ở giữa thế kỷ 19 thèm khát tự do, và dân tộc An nam sẵn sàng bảo vệ đức tin Thiên Chúa của mình ? Có lẽ hơi khó hiểu một chút! (ghi chú của người dịch).

[8] Nguyên văn:..Ẩ.avaient reduit les paĩens en une sorte d’esclavage. Xin minh chứng để tránh hiểu lầm. Ðộng từ ‘’réduire’’ trong câu tiếng Pháp có nghĩa nặng hơn động từ ‘’xem’’ trong câu tạm dịch, (ghi chú của người dịch).

[9] Khâm sai, quan thanh tra (ghi chú của người dịch).

[10] Nói chung là một loại ngôn ngữ đơn giản hóa, pha trộn nhiều ngôn ngữ khác nhau, dùng vào việc buôn bán và giao dịch thông thường, (ghi chú của người dịch).

[11] Tức là Quảng châu bên Tàu, (ghi chú của người dịch). 

                                                                         (Tiếp Theo)


Thứ Hai, 4 tháng 1, 2021

 Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861

(Histoire de L’EXPÉDITION DE COCHINCHINE en 1861)

(Tiếp Theo)


CHƯƠNG VII

Ðề cương:

 

Ðánh chiếm My-Tho..Chiến thuật tấn công.Thành An nam bị vây hãm trên đất liền và từ mặt sông Cambodge._Chương trình hành quân vẫn được duy trì mặc dù bịnh dịch tả, sốt rét, kiết lỵ, chướng ngại thiên nhiên và nhân tạo; tàu di chuyển khó khăn, cọc cừ đóng dài cả dặm; thành đồn trang bị súng ống rất mạnh và địch biết sử dụng thành thạo._Sau khi thành My-thô bị đánh bại, mùa mưa bắt đầu mãnh liệt._Các cuộc hành quân phải hoãn lại.

Các lực lượng hải quân, công binh, pháo binh, tổng hành dinh thay phiên nhau thăm dò sông Cambodge từng giờ một và đồng thơi thám thính vùng ven biên My-thô.

Có hai con rạch nối liền sông Vaĩ-co tây và thành phố My-thô. Một trong hai con rạch đổ thẳng vào sông Cambodge, đó là kinh Bưu điện [1], kinh này trong các báo cáo thời ấy mang tên An nam là Rach-run-ngu [2] Con rạch thứ hai là kinh Thương mại[3] Kinh Thương mại đánh vòng xa hơn kinh Bưu điện nhưng cũng đổ vào sông Cambodge, cách My-thô chừng tám dặm về phía thượng lưu, tức thuộc vùng hậu tuyến thành My-tho. Kinh Thương mại nối dài với con kinh huyết mạch là kinh Tàu [4] tạo ra đường lưu thông buôn bán nối liền các vùng phì nhiêu thuộc tỉnh My-thô và Saĩgon. Nếu dùng làm đường chiến lược để đánh My-thô thì kinh Thương mại thuận lợi hơn kinh Bưu điện. Kinh Thương mại không giống với kinh Bưu điện vì kinh Bưu điện khi gần đến thành My-thô thì trở nên hẹp và hướng thẳng vào thành, các pháo hạm nhỏ trở nên quá lộ liễu khi tiến gần đến thành địch. Tốt nhất là đặt vài tàu nhỏ trên kinh Thương mại để chận đường rút lui của địch trong khi ta dùng kinh Bưu điện để tấn công. Kinh Thương mại không có đập chắn cũng không có cắm chông, cũng không có đóng đồn; nhưng kinh lại cạn, cỏ nhiều rất vướng, các phương tiện thủy vận của ta không dùng kinh này được.

Rốt lại chỉ còn kinh Bưu điện. Quân địch làm đập chắn và phòng thủ rất chặt chẻ kinh này, vì biết đây là đường nước sâu nhất mà các pháo hạm bằng sắt của ta có thể dùng để tấn công vào thành. Trinh sát và phúc trình của bọn gián điệp đều cho biết có rất nhiều đập chắn ngang, các đồn canh lại trang bị khí giới hùng hậu, rồi đây quân ta bắt buộc sẽ phải gặp sức kháng cự mạnh mẽ. Ðường cái quan từ sông Vaĩ-co đến My-thô thì người An nam đã phá hư hỏng không còn xử dụng được nữa, cầu bắc qua các kinh nhỏ đã bị phá xập. Ðường cái có bảy kinh nhỏ cắt ngang, đường vòng như hình cánh cung mà dây cung là con kinh Bưu điện.

Vì vậy là trên bờ, dưới sông hay trên mặt biển, tất cả đều cho thấy chuyến này đánh vào thành My-thô là một chuyện khó khăn và nhiều rủi ro. Nhưng sau khi ta phá hết đập, hạ hết các đồn canh giữ trên kinh Bưu điện, các pháo hạm bằng sắt sẽ có thể dùng kinh này để tiến đánh thành Mỹ-thô. Các cỗ súng nòng có khía đem đặt trên tàu sẽ giữ vai trò giống như đại pháo do ngựa kéo, hai bên bờ sẽ có bộ binh yểm trợ. Khi các toán quân viễn chinh tiến gần tới thành thì biết đâu nhờ may mắn ta sẽ gặp một con nước lớn bất ngờ trên sông Cambodge để có thể đưa cả hạm đội tới gần để đánh thành địch ngay trước mặt và cả bên hông thành [5]

Chương trình chiến thuật được quyết định như vừa kể, và ngày 26 tháng ba đại úy hải quân Bourdais, từ mười lăm ngày nay đóng nút chận tại cửa kinh Bưu điện nhận được lịnh bắt đầu hành quân đánh My-thô và phải khởi sự phá ngay các đập đầu tiên. Pháo hạm lớn Mitraille, đại úy Duval chỉ huy; pháo hạm số 18, đại úy Peyron chỉ huy; pháo hạm số 31, đại úy de Mauduit Duplessix chỉ huy; đại đội quân đổ bộ theo tàu Monge do đại úy de la Motte-Rouge chỉ huy; 200 thủy quân đổ bộ (thuộc các đại đội 2 và 5, do hai đai úy Proubet và Hanès cầm đầu); 30 người Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy; 1 ổ súng cối miền núi và mười người phụ trách ổ súng này thuộc chiến hạm Impératrice-Eugénie thì giao cho thiếu tá Bourdais sử dụng và điều khiển. Ðại úy công binh Mallet và đại úy tư lịnh Haillot được biệt phái thêm cho đoàn quân xuống đánh My-thô.

Thủy sư đề đốc đưa xuống cho đại úy hải quân Bourdais những lời chỉ thị của ông liên quan đến cuộc hành quân và nhất là cách phải đối xử như thế nào khi ra mắt phó vương An nam:’’Ông phải nói với phó vương An nam trấn giữ thành My-thô, khi trao thư tôi cho ông ta, rằng ông ta phải để ta chiếm giữ thị trấn này và cả vùng tứ giác mà ranh giới là sông Vaĩ-co tây, kinh Bưu điện, kinh Thương mại và sông Cambodge, mà không được phép làm khó dễ gì hết; ông ta phải tuân theo điều chúng ta đòi hỏi không được trì hoản hay chậm trể vì bất cứ lý do gì.

‘’Nếu ông ta muốn về Saĩgon, xin ông cứ cấp cho ông ấy một tờ giấy thông hành. Ông ta sẽ được đối đãi trong thể. Nếu ông ta muốn đầu thú sang hàng ngũ của ta, ông ta sẽ được giữ nguyên tước phong, nhưng phải trở về dân sự. Nếu ông muốn rút lui an phận trên lãnh thổ An nam thì ta sẽ cấp cho phương tiện.


‘’Ông hãy thận trọng khi thám sát và lúc tiến về Mỹ-thô. Ông đừng quên là nếu bất cứ một người nào của ta bị địch bắt làm tù binh tức là một sự thất bại của ta; ngay cả lọt vào tay họ sống hay chết cũng thế._Mặc dù khi ông yết kiến vị phó vương cũng không được phép quên mục tiêu tối hậu của ta là chiếm My-thô (27 tháng 3 năm 1861).’’

Vị chỉ huy Bourdais tìm cách đưa tàu vượt kinh Thương mại trong suốt những ngày 27, 28, 29, và 30 tháng ba. Các pháo hạm bị lún bùn và bị cỏ quấn; càng ngày tàu càng gặp nhiều khó khăn, quả thật phải công nhận là kinh Thương mại không thể nào dùng để đưa tàu đến Mỹ-thô được. Vì thế vị chỉ huy Bourdais phải dồn tất cả lực lượng dưới quyền ông vào kinh Bưu điện. Ngày 1 tháng 4 ông đã tập hợp hết tàu bè của ông vào kinh này.

Tàu Mitraille, sau nhiều lần tìm cách vượt kinh Thương mại không xong thì nhận được lịnh trở về kinh Bưu điện. Tàu Mitraille khi vào Kinh Bưu điện phá được hai đập đầu tiên trong kinh này. Trung úy hải quân Gardoni, hai đêm trước đó cũng đã tìm cách tiến được đến đập thứ ba nhưng chạm trán với hai đồn trấn giữ nằm hai bên bờ; đạn bắn xéo từ hai đồn làm cho tàu không tiến lên được nữa.

Ngày 1 tháng tư, hai đoàn dọ thám trên bờ xác định vị trí hai đồn này. Tức thời pháo binh kéo súng bắn vào: nhưng vị trí vẫn còn cách xa một ngàn hai trăm thước nên không biết rõ kết quả. Hôm sau, ngày 2 tháng tư, Tàu Mitraille tiến lên, theo sau là tàu Alarme; nhưng tàu Mitraille lại bị mắc cạn cách đồn thứ nhất bốn trăm thước và làm nghẽn đường tiến của tàu Alarme phía sau. Tuy vậy, kinh còn đủ rộng để các pháo hạm số 18, 31 và 20 len qua được. Ba pháo hạm tiến đến sát đồn địch, khoảng cách chỉ còn bằng tầm súng ngắn cầm tay, chỉ trong mấy phút là khống chế được đồn này.

Cả hai đồn (đồn thứ nhất và đồn thứ hai), xây cất trên bùn, chung quanh có hào, nước sâu đến hai thước Mỗi đồn có đục mười hai lỗ châu mai. Các khí cụ phòng thủ phụ thuộc gồm có bàn chông, cọc nhọn và nhất là chung quanh đồn lại đầy bùn sình, vì thế không thể nào đánh thẳng vào được. Từ xa ta chỉ biết nã súng vào đồn. Ðồng thời, tuy dưới lằn đạn của địch từ trong đồn bắn ra, ta vẫn phá thêm được hai đập (đập thứ ba và thứ tư)._Trong trận này, đại úy hải quân Bourdais trương cờ chỉ huy của mình trên pháo hạm số 18. Hai tàu Mitraille và Alarme, mặc dù một bị mắc cạn một bị nghẽn không lên được, nhưng cả hai đã dùng hỏa lực để góp phần vào chiến thắng ngày mùng một tháng tư.

Ta mất suốt hai ngày, 2 và 3 tháng 4, để phá đập. Ðịch nhận chìm nhiều sọt đá dưới đáy kinh, quân lính phải mò lên từng tảng một. Cọc nhọn và cừ bằng thân cau cắm rất sâu dưới lòng kinh, ta phải dùng cần trục để nhổ lên. Ðể nhổ cọc ta đóng giàn thật chắc trên bờ, sau đó luồn lòi tói qua ròng rọc để buộc cừ cọc ngập trong bùn sình rồi kéo lên. Quân ta phải lội xuống kinh, sình ngập ngang người, phần phía trên phơi ra nắng nóng bỏng. Dịch tả lan tràn trong đoàn quân viễn chinh. Người nào không bị dịch tả thì bị sốt rét hoặc kiết lỵ. Từ lúc ta dùng đại pháo để hạ các đồn xong thì ngày đêm quân lính phải ra sức vét kinh, nhất là khi nhìn họ làm việc lom khom rét cầm cập dưới bầu trời thiêu đốt, ta thấy rằng sức nhẫn nại của họ đang thúc dục ta phải đắnh thành My-thô càng sớm càng hay. Người nào ngã xuống thì cho các sa-lúp dùng chở ngựa đem họ về tàu Mitraille và Alarme, bị mắc cạn và kẹt ở phía sau từ ngày 2 tháng

Ngày 3 tháng 4, đập phá xong, ba pháo hạm bằng sắt tiến lên, được hai mươi phút lại chạm trán và bắn nhau với một đồn khác (đồn thứ ba) nằm phía bờ bên trái. Ngay phút đầu người chỉ huy An nam trong đồn bị thương văng mất một bên vai. Sức phòng thủ liền giảm đi, đồn bị ta hạ, địch bỏ chạy. Ðại đội 2 của ta chiếm lấy đồn. Ðồn có bốn lỗ châu mai dùng canh giữ hai đập cắm cọc và cừ nhọn (đập thứ năm và thứ sáu); đồn địch nằm vào khoảng giữa hai đập. Ðập thứ nhất cũng giống như các đập trước đây, tức cắm bằng thân tre và thân cây cau vạt nhọn; xa hơn một chút là một thuyền chiến chở đầy đất mà địch đem đánh đắm giữa kinh. Khoảng giữa hai đập thứ năm và thứ sáu có neo hai mươi lăm chiếc bè chất đầy lưu huỳnh và bùi nhùi. Vị trí này là nơi hai dòng nước trên sông Vaĩ-co và Cambodge gặp nhau, nên bùn đất dồn lại, đáy kinh rất cạn; ngay khi nước lớn cũng chỉ sâu một thước rưỡi. Chiếc thuyền chiến thì địch đánh đắm ngay vào nơi hai dòng nước gặp nhau.

Sau khi đồn thứ ba bị hạ, vị chỉ huy Bourdais liền ra lịnh cho đại úy Duval nội trong ngày mang tàu Mitraille quay về báo cáo tin chiến thắng của quân viễn chinh với vị tổng tư lịnh chỉ huy, đúng theo chỉ thị ông nhận lãnh trước khi hành quân. Ðại úy Bourdais sai phải báo cáo rằng ông đã chiếm được ba đồn, phá được năm đập; và chậm nhất là ngày 5 tháng tư sẽ phá xong đập thứ sáu để tiến lên; ông cũng đã đi được nữa đường từ sông Vaĩ-co đến sông Cambodge. Vị sĩ quan lãnh trọng trách mang báo cáo sơ khởi về Saĩgon cũng gặp nhiều khó khăn. Tất cả sông rạch ông phải đưa tàu đi đều tùy thuộc vào thủy triều lên xuống, khi nước ròng thì nhiều nhánh cạn khô.

Nếu ba pháo hạm cứ tiếp tục liều lĩnh tiến lên mà không có bộ binh yểm trợ, ít nhất từ một trong hai bên bờ, sẽ phải gặp nhiều khó khăn. Hai bên lườn pháo hạm thường chạm với cây rừng mọc hai bên bờ kinh; địa thế ta không biết rõ; địch quân lại gia tăng thêm sức chống trả. Ta đang lâm vào một giai đoạn thật nguy hiểm trên đường tiến đánh My-thô. Ngày 4 tháng 4, từ Saĩgon ta hối hả thành lập một đội quân tăng viện, nhờ hộ tống hạm Echo do đại úy de Vautré chỉ huy đưa xuống. Ðạo quân tăng viện gồm 200 lính bộ do hai đại úy Lafouge và Azières cầm đầu; 100 thủy quân, 2 đại đội thủy quân đánh bộ, hai cỗ đại pháo nòng 4, hai súng cối miền núi nòng có khía trang bị đầy đủ thùng bọng và xe đạn, nhưng không có ngựa kéo, tất cả do đại úy Amlaudrie du Chauffaut cầm đầu; một đội công binh biệt phái gồm 50 người do đại úy Bovet cầm đầu và thiếu úy hải quân Amirault biệt phái sang công binh làm phụ tá. Thiếu úy Mahieu của công binh cũng đi theo, viện quân có chở thêm 20 000 viên đạn trừ bị cho bộ binh. Ðoàn quân viễn chinh trở nên khá đông và quyền chỉ huy chuyển sang tay của đại úy hải quân Le Couriault du Quilio, ông là sĩ quan tùy tùng của chính thủy sư đề đốc. Vị chỉ huy tiểu đoàn công binh là Allizé de Matignicourt làm phụ tá điều khiển tổng hành dinh cho vị chỉ huy mới tức là Le Couriault du Quilio. Hai hôm sau tức ngày 6 tháng tư, lại có thêm nhiều toán quân tăng viện nữa do đại úy hải quân Desvaux chỉ huy và hướng dẫn đưa từ Saĩgon đến Rach-run-ngu[6] Ðồng thời trung úy bộ binh Guilhoust ở Thu-yen-mot cũng được lịnh đem theo xuống tàu 3 ổ súng cối miền núi và trực chỉ My-thô.

Ngày 4 tháng 4, phó thủy sư đề đốc Charner ra huấn thị cho vị chỉ huy mới của đoàn quân viễn chinh đi đánh My-thô bằng những lời lẽ như sau: ‘’ Tôi giao cho ông thống lãnh đoàn viễn chinh đi đánh My-thô...Sau khi được báo cáo tình trạng hạm đội của ta trong kinh, và địa thế chung quanh thành My-thô, ông liệu xem có đủ sức đánh chiếm My-thô không, hay ông cần thêm yểm trợ nữa. Ông hãy cân nhắc và hành động thật cẩn thận không để xảy ra một rủi ro nào hết. Theo tình báo của người An nam đưa thì chung quanh thành có nhà dân vì thế ông có thể dùng cho quân ta ẩn nẩp và đặt một giàn pháo để phá thành nếu cần.Nếu ông thấy ta có thể đào mương để tháo nước trong hào chung quanh thành thì hãy thực hiện vào ban đêm, chuyện này cũng không phải là khó khăn lắm. Ðây là một vấn đề phải nghiên cứu tại chỗ.Nếu vị phó vương đề nghị thương thảo với ông, thì ông sẽ trả lời rằng phải để ông chiếm thành rồi mới nói chuyện. Không một phút nào ông được phép quên là ông đang liên hệ với một con cáo sẵn sàng đánh lừa ông.

Và ngày 6 tháng tư:

‘’Ông xem thử có thể đưa các pháo hạm bằng sắt vượt qua các địa thế mà ông đã thấy để vào sông Cambodge hay không. Rất có thể ông còn phải phá thêm nhiều đập nữa, và cũng có thể còn nhiều ghe thuyền địch đánh chìm để làm nghẹt kinh. Chưa nói đến là các pháo hạm bằng sắt của ta sẽ còn gặp khó khăn vì nước cạn. Tuy nhiên, đáy kinh là bùn nên các pháo hạm có thể vừa cày sâu xuống bùn một chân[7] mà vẫn có thể tiến lên được.

 ‘’Người ta cho tôi biết ở My-thô có nhiều thuyền chiến rất tốt, có thể quân An nam đem vài chiếc ra chống với ông đó. Vì thế phải cẩn thận mới được. Hủy diệt được các thuyền này là điều hết sức mừng cho ta; nhưng nếu bắt được các thuyền này thì lại còn tốt hơn nữa; mục đích là cắt phương tiện rút quân của địch. ‘’Tàu Lily và tàu Sham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, sẽ không gia nhập vào lực lượng của ông. Ý định của tôi là sau khi tiếp tế cho các tàu này xong sẽ cho hai pháo hạm giúp sức cố tìm đường để lọt vào sông Cambodge.

‘’Ông cũng chịu khó để ý xem là có thể thử đem hai tàu Mitraille và Alarme vào sông Cambodge được không. Nước thủy triều có thể giúp sức thêm. Ông xem thử ta có thể dùng hai thuyền buồm đáy bằng kéo pháo hạm giống nhự ngựa kéo để giúp pháo hạm thêm sức lướt lên hay không?’’

Trong khi đó vào ngày 5 tháng 4, sau khi đã phá xong các đập thứ năm và thứ sáu (ngày 3, 4, và 5 tháng tư), hạm đội của thuyền trưởng Bourdais, khi đó vẫn còn dưới quyền điều khiển của ông và đưọc tăng cường thêm pháo hạm số 16 do đại úy Béhic chỉ huy, đã tiến tới một đập nữa (đập thứ bảy). Lần đầu các tàu gặp địch quân chống trả từ hai bên bờ cùng một lúc; quân địch bắn xuống, các pháo hạm bắn trả thì quân xung kích biến mất. Ðây là một cảnh cáo cho ta. Quân ta tìm thấy một xác chết trên bờ và nhiều vết máu. Một đại đội thủy binh đổ bộ (đại đội 2) dừng quân và đóng tại địa điểm nơi hai dòng nước gặp nhau để làm quân yểm trợ, vừa để chống trả quân An nam thường tấn công lẻ tẻ ban đêm.

Lúc này thì bộ binh của ta hai bên bờ, vừa bị quân số thu hẹp, vừa phải cực nhọc phá đập nhổ cừ, nhổ chông, kiệt sức vì bịnh kiết lỵ, dịch tả và sốt rét, nên không còn đủ sức yểm trợ cho pháo hạm dưới sông nữa. Họ trông chờ đám quân tăng viện từ Saĩgon đưa xuống để tiếp sức bảo vệ các pháo hạm; ngoài công tác bảo vệ, quân tăng viện còn phải trinh sát để hướng dẫn pháo hạm, xác định vị trí đồn địch để tránh khỏi bị phục kích bất ngờ. Nhưng việc thực hiện thật khó khăn, nhiều khi không làm nổi: vì bọn gián điệp nói láo, hoặc hai bên nói với nhau không hiểu.

Tình báo do người An nam cung cấp (chỉ dẫn rất đúng) là bên tả ngạn chỉ có một kinh phụ, trong khi đó bên hữu ngạn có đến năm con rạch vừa lớn vừa nhỏ đổ vào Rach-run-ngu. Khi cách thành My-thô hai ngàn thước, con đường cái quan dọc bờ kinh có thể đắp lại và dùng được. Vì vậy quân ta quyết định tiếp tục hành quân theo bờ bên trái, sau đó khi gần đến My-thô sẽ đổi sang bờ bên mặt.

Nhóm quân tăng viện từ Saĩgon đi theo tàu Écho đổ bộ sáng ngày 5 tháng 4 ở ngã ba sông Vaĩ-co và sông Run-ngu; địa điểm này do chiến hạm Rhin trấn giữ. Ngay ngày hôm sau, đại đội 2 bộ binh và thủy binh đánh bộ được cho xuống các sa-lúp do pháo hạm số 22 kéo theo; di chuyên thường trễ nải vì cừ cọc khi phá đập vẫn còn nổi lều bều làm tắc nghẽn nhiều nơi trong kinh Bưu điện. Gặp chỗ đáy cạn, pháo hạm phải tháo bỏ các ghe sa-lúp để vượt qua trước, còn ghe sa-lúp cứ thả trôi theo dòng nước. Mặc dù bị mắc cạn nhiều lần, nhưng bộ binh và thủy quân đánh bộ cũng đến được vị trí đập thứ tám vào lúc ba giờ chiều. Ðại đội trưỏng Allizé liền cho lịnh đổ bộ và tiến lên theo bờ phía trái. Ðại đội 10 thủy quân và 50 lính Tây ban nha do trung úy Maolini chỉ huy cũng nhập chung trong đám quân này. Ðất mềm, sình lầy, cây cối chằng chịt, thân dẽo lại gai góc, ngựa và la không tiến lên được, các ổ súng cối mang theo đành phải khuân vác trên vai. Cứ bốn cu li mang một cỗ súng, bốn cu li khác thì vác bàn bắn, hai cu li khiêng một thùng đạn. Cứ chia nhau như vậy và họ đi thật nhanh.

Các pháo hạm theo sau cách khoảng độ một trăm bước: nhưng pháo hạm mới tiến lên được 500 thước lại phải dừng lại vì thân cau địch chặt và ném ngổn ngang dưới kinh. Vừa dừng lại thì đồn địch (đồn thứ tư) bắn túa ra; ta cũng không biết vị trí đồn chỗ nào.

Chính nơi này địch tập trung tất cả mọi phương tiện phòng thủ của họ. Dưới nước các chướng ngại khổng lồ bít hết kinh. Trên bờ họ dàn trận theo một đường tuyến dài một cây số, trước trận là quân xung kích, phía sau có pháo binh và quân trừ bị. Phía ta, bộ binh, thủy quân, lính Tây ban nha, thủy quân đánh bộ đổ quân tràn ra đồng. Bộ binh dàn ra làm quân xung kích, bên phải có thủy quân và lính Tây ban nha hỗ trợ, bên trái có thủy quân đánh bộ hỗ trợ. Quân xung kích hai bên liền bắn nhau. Trận chiến bất thần ngã ngũ sau hai loạt tấn công của bộ binh Tây ban nha do trung úy Maolini hướng dẫn rất gan dạ; địch lui quân, trái với thường lệ, họ không mang theo xác chết. Ta liền biệt phái một nhóm bộ binh chiếm đồn. Số quân sĩ còn lại cắm trại trong một ngôi làng gần ngay phía trước đồn.

Pháo hạm phải dừng lại trước các chướng ngại khi quân hai bên đụng nhau trên bờ. Các loại chướng ngại có kích thước thật đang nể. Ðập dưới đáy kinh thật chắc chắn (đập thứ tám) lấp một phần kinh dài suốt chín mươi thước gồm ba chặn, mỗi chặn có chín ghe nhận chìm chở đầy bùn đất, phía sau đập suốt 1 100 thước thì địch dùng một số thân cau ném chắn ngang mặt kinh, một số đóng xuống đáy kinh san sát giống như một nơi ương cây giống. Sau trại cây giống lại có một đập nữa (đập thứ chín). Ðập thứ chín nằm ngay phía trước đồn mà ta vừa chiếm xong và phía trước ngôi làng quân ta đang cắm trại, các pháo hạm còn kẹt lại phía sau.

Ngày 7 tháng 4, ta khởi công phá đập. Chờ lúc nước ròng, ta vét bùn trong các thuyền nhận chìm. Người An nam nhận chìm ghe nhưng đục lỗ quá cao không đục ở đáy, nên khi vét hết bùn thuyền lại nổi, thủy triều dâng lên thì thuyền trôi đi. Công việc phá đập nặng nhọc hơn các ngày hôm trước nhiều, nước ngập lên đến vai, đầu ló ra khỏi nước thì trời nóng như thiêu như đốt. Bộ binh nhiều người bị dịch tả: thủy quân đã bị dịch tả từ mấy ngày trước rồi. Càng ngàng càng phải huy động thêm bác sĩ cho đoàn viễn chinh; những người lính đánh bộ không bao giờ quên sự tận tâm của các bác sĩ Champenois và Azaĩs; bên thủy quân có bác sĩ Dugé de Bernonville. Ngay khi đến đập thứ bảy đã có đến 150 quân sĩ bị bịnh phải di tản: mỗi người một bịnh đòi hỏi phải săn sóc khác nhau; y tá cũng thiếu, bọn cu li Tàu bị dịch tả phải tự xoa bóp cho nhau. Nhiều tàu sa-lúp móp méo dưới móng ngựa từ khi còn ở Peh-tang bên Tàu bây giờ lại tệ hơn, bị thủng đáy và nước tràn vào; phần lớn các ghe thuyền cướp được của quân An nam cũng bị nước vào. Xác của quân lính ta thâm đen vì tai ương dịch tả, tạm thời đặt ở gầm tàu, cứ mỗi lần tàu bị chòng chành thì đè lên người sống. Thật quả là những trạm cứu thương quân y hết sức thảm thương. Chỉ trong vòng vài tiếng đồng hồ mà trung úy hải quân Vicaire đã thấy trên chiếc sa-lúp Loire năm người trút hơi thở trước mắt mình. Hạm trưởng và sĩ quan trên tàu Monge tiếp tục chỉ huy thủy thủ phá đập, đây là số quân lính duy nhất từ khi khởi sự phá đập đến nay mà vẫn còn đứng vững. Trong số thủy thủ đoàn của tàu Monge nhiều người đã chết, người nào còn sống sót chắc lâu lắm mới đủ sức hồi phục. Vị chỉ huy Bourdais bị sốt; những hôm gần đây ai cũng thấy ông suy yếu rõ. Ông thường xuống xuồng nhỏ để huy động, nếu thấy quân lính chèo xuồng lơi tay vì mệt lã thì ông quay sang người cầm đầu bọn lính chèo mà nói rằng: ‘’Bảo họ cố gắng lên, tao sẽ đề nghị gắn huân chương cho mày’’. Cứ như thế mà ông thúc họ cố gắng thêm Vị chỉ huy Bourdais, người điều động lính chèo và năm anh chèo xuồng người nào cũng ngất ngư như sắp chết. Vào một buổi chiều, khi đập thứ chín đã phá xong và sức chịu đựng đã cùng cực, người ta để ý thấy có một vài người Pháp và người Tagal bắt đầu than phiền.

Trong hai ngày gánh chịu cực nhọc và thương vong để phá đập, các pháo hạm bằng sắt đã vượt được khúc kinh bị chận để gặp đám bộ binh chiếm đồn An nam còn đang đóng quân để chờ. Kinh Bưu điện đổi hướng một cách bất ngờ tại vị trí này. Một khuỷu sông rất gắt làm kinh xoay hướng, cách đó vài trăm thước kinh lại đổi hướng một lần nữa cũng rất gắt làm cho Rach-run-ngu trở lại hướng bắc nam như trước.

Bọn gián điệp mà ta tra hỏi cho biết trước khi đến My-thô còn có một đồn quan trọng nữa trên kinh Bưu điện. Sau khi xác định vị trí của đồn, quân ta chọn chiến thuật như sau: dùng cu li mang vài khẩu đại pháo bọc hậu để bắn vào phía sau đồn, trong khi đó hạm đội sẽ tấn công vào mặt trước. Ngày 9 tháng tư, nhóm quân sĩ tăng viện cuối cùng đã đến nơi và nhập hết vào đạo quân viễn chinh đánh My-thô; pháo hạm số 20 (hạm trưởng Gougeard) vừa đến cũng tháp tùng theo các pháo hạm số 18, 31, 16, để tiến lên dẫn đầu. Ðạo quân trên bộ tiến dọc theo kinh Bưu diện. Ðiểm tập họp của hạm đội và quân trên bộ là cửa một con kinh nhỏ đổ vào Rach [8]

Các pháo hạm tới điểm tập họp nhanh chóng. Nhưng cả đoàn quân trên bộ lạc đường. Tên dẫn đường An nam cố tình đánh lạc hướng đoàn quân hay chính anh ta bị lạc cũng không biết, hoặc có thể anh ta cũng không hiểu quân ta muốn gì. Việc di quân hết sức cực nhọc, vì đoàn quân lọt vào một vùng toàn ruộng, kinh rạch chằng chịt, rừng thưa rải rác[9] Gần các bờ rạch, đất ướt sũng và mềm vì nước thủy triều lên xuống; bên trong, cách bờ một chút, thì người An nam theo tập quán đào dẫn mương rãnh khắp nơi, rễ cau bò ngập trong mương; quân lính ta chịu thua, lanh quanh không tiến lên được. Cả đạo quân phải nhắm chừng mà đi không hay rằng lạc hướng, càng đi càng xa con kinh Bưu diện, sai một góc đến 30 độ. Bỗng quân ta gặp một ngôi làng có rất đông quân lính An nam. Quân Pháp liền dàn ra chuẩn bị đánh nhau, trong khi đó quân địch lại rút lui mất hết. Quân ta liền chiếm làng chẳng phải đánh gì cả. Ta xem lại thì thấy ngôi làng nằm đúng trên con rạch mà cửa rạch là nơi tập họp; làng chứa đầy súng, lao và quân dụng. Quân ta biết cửa kinh là điểm tập họp nhưng cửa kinh còn cách bao xa thì thật khó tính cho ra; đúng tên dẫn đường đánh lạc hướng quân ta rồi, phải cẩn thận có thể lọt bẫy. Quân ta lại tiến lên hy vọng tìm được một nơi tạm ổn để cắm quân. Nhưng cả đoàn lọt vào một vùng đầm lầy, hố mương chằng chịt, cỏ mọc bít bùng; địa thế vừa nguy hiểm, lại vừa không giữ được trọng trách giao phó là yểm trợ cho đoàn pháo hạm

Quân ta tiến lên lại vô tình lọt vào cạnh ngay đồn địch mà ta đang lùng tìm để đánh; bọn gián điệp bảo thế; trung tá Allizé cũng có linh cảm như thế. Quân ta liền quay lại đường cũ và cắm quân trong ngôi làng vừa rồi. Ít ra là nơi đây, dựa vào con rạch ta có thể để liên lạc với hạm đội. Ðoàn quân cắm trại vừa xong thì đại đội 3 của đại úy Sénez được lịnh lên đường hộ tống một đoàn vận tải lương thực sắp đến; đại đội phải đi đêm mà không được nghỉ ngơi gì.

Vào khoảng mười một giờ tối (ngày 9 tháng 4), bỗng nghe thấy tiếng la và tiếng báo động của quân canh. Một vùng sáng choang đang di chuyển trên kinh Bưu điện. Trung úy hải quân Joucla trên tàu Echo, chỉ huy đoàn vận chuyển đạn dược và lương thực, liền nhảy xuống ghe nhỏ xáp đến phía đuôi các pháo hạm thông báo tình trạng nguy hiểm. Sau đó thì hướng ghe vào bờ kinh, nơi mà đoàn tàu vận chuyển đang tập họp, ông ra lịnh phải nhổ neo thật gấp. Nhờ nước lớn và chảy mạnh nên việc tách bến cũng nhanh. Ông tiến lên trước và kéo một thuyền hỏa công của địch. Trung úy Besnard, do trung tá Allizé đưa đi thám thính cũng kéo một thuyền hỏa công khác ra xa. Ðó là hai thuyền buồm chở đầy dầu; cả hai đều được khéo léo đưa vào một nhánh kinh nhỏ của Rach-run-ngu, thật là may phước. Hai thuyền hỏa công cháy rực, lửa sát tới mặt nước; cỏ và cây bị cháy nám cả một vùng rộng lớn. Phản ứng và hành động mau lẹ này làm cho hai trung úy hải quân Joucla và Besnard rất hãnh diện.

Nước trong kinh chảy mạnh khoảng hai hải lý, vì thế thật nguy hiểm. Các pháo hạm phải buộc giây vào nhau. Ngay đêm đó phải dựng một hàng cọc chắn bảo vệ các pháo hạm, và từ đêm hôm sau vị chỉ huy đoàn quân cứ tối đến là cho giăng xích sắt chận ngang kinh.

Ngày 10 tháng 4, từ mờ sáng, ta lại đổ đi tìm xem đồn địch ở đâu.

Một đoàn trinh sát do đại úy pháo binh du Chauffaut hướng dẫn (gồm bộ binh Tây ban nha, một đại đội bộ binh, một đại đội thủy quân đánh bộ) băng đồng mà đi. Tên dẫn đường An nam trước hết dẫn họ đi xéo qua phải; vì bị quân ta hối thúc quá và sau đó thì đánh hắn, hắn bèn đổi hướng đi và dẫn cả đoàn trinh sát của ta thẳng tới sát My-thô. Cả toán quân cải nhau huyên náo và hổn loạn; trong khi ấy bọn lính Tây ban nha gốc người Tagal và một chiếc ghe An nam hai bên bắn nhau vài phát. Ðoàn trinh sát lại quay về; trên đường bị một khẩu đại pháo không biết từ đâu bắn tới một quả: vài người trong đoàn cho rằng chổ đại pháo bắn ra tức đúng là đồn địch rồi: vài người khác thì cho rằng chưa chắc [10] Trung úy hải quân ( thuộc công binh) đề nghị dùng ghe đổ xuống Rach-run-ngu xem sao. Ghe bị bắn, nhưng tìm ra đồn và ông quay ghe ngược trở về. Việc dùng ghe thám thính như thế nguy hiểm lại chưa có phép của cấp trên. Vài nông dân cho biết rằng kinh không có canh phòng và các đồn đều di tản hết rồi.

Trinh sát thì quá mơ hồ, nhưng ta lại phải mang quân tiến lên. Trong tình thế này, vì không biết đích xác đồn ở đâu, nên ta cứ kể như đồn địch đã di tản hết chỉ còn lưu lại một ít pháo binh; vì thế vị chỉ huy du Quillo cho lịnh trung tá Bourdais cứ tiến đánh My-thô. Ông chỉ thị cho trung tá Bourdais phải hết sức cẩn thận và cũng cho ông này biết là sáng nay ta vừa bị một phát đại pháo nhưng không biết ở đâu bắn tới. Trung tá Bourdais dẫn ba đại đội quân tăng viện, bộ binh, thủy quân, thủy quân đánh bộ tiến về Mỹ-thô, tất cả là ba trăm người. Họ có lịnh khi gần đến My-thô còn độ hai ngàn thước thì dừng lại chờ đạo quân viễn chinh đi sau. Vào ba giờ chiều, các toán quân của trung tá Bourdais xuống tàu sa-lúp, phía trước là các pháo hạm: cả đoàn lên đường, pháo hạm số 18 dẫn đầu mang cờ hiệu của trung tá Bourdais; tiếp theo là các pháo hạm 31, 22, 16. Pháo hạm 20 bỏ neo ở lại không theo đoàn tàu.Một lúc sau có lẽ chính đồn địch mà ta tìm kiếm từ hai ngày nay (đồn thứ năm) bắt đầu nổ súng. Các pháo hạm của ta cứ nhắm hướng phỏng chừng mà bắn trả, rồi tiếp tục tiến lên. Ta vẫn không biết đính xác đồn địch ở đâu hết. Bất thình lình, đồn hiện ra ngay trước mặt chỉ cách bốn trăm thước, đúng vào một khúc quanh của con kinh. Pháo hạm số 18 đi đầu có mang cờ hiệu của trung tá Bourdais bắn một quả đạn. Ðồn An nam liền bắn trả ba quả, ba quả đạn An nam đều có hiệu lực. Một rớt lên tàu, một làm bị thương một quân lính của ta; quả thứ ba làm bay mất quả tim và cánh tay trái của trung tá Bourdais. Tức thời pháo hạm 18 vọt lên, theo sau là pháo hạm 31. Cả hai được các pháo hạm 16 và 22 dàn ra yểm trợ. Bốn đại pháo nòng 30 có khía phóng đạn liên hồi vào đồn An nam. Ðồn bị lủng nát, quân phòng ngự bỏ đồn rút lui. Quân Pháp liền chiếm đồn._Kể từ lúc đó kinh Bưu điện được hoàn toàn khai thông.

Như vậy là đường My-thô được khai thông bằng cái chết của đại úy hải quân Bourdais. Quân sĩ đều phát lộ niềm xúc cảm khó tả, lẫn lộn giữa chiến công và mất mát: thôi ta cứ để những xúc cảm đó gắn bó với nhau. Sức mạnh của xúc cảm làm cho mọi người phải bật lên tiếng kêu Trời; nhưng rồi từ từ cũng lắng xuống. Người ta phủ lên xác của ông một lá cờ để làm vinh danh ông, và cũng có thể là để che cảnh tượng khủng khiếp đừng cho những người còn đang chiến đấu phải nhìn thấy. Khi thu nhặt các phần thi thể, ta tìm được cánh tay của ông, nhưng trái tim thì tìm không thấy. Trong suốt tám ngày trước đây, ngày nào ông cũng phá được một đồn hay san bằng một đập. Ông tiến lên, xô ngã những chướng ngại trước mặt bằng cánh tay lúc nào cũng nôn nóng, những cảnh chết chóc và hấp hối không làm sờn lòng hay nhụt chí của ông. Ðó là hình ảnh của cuộc đời ông. Ông chưa đầy bốn mươi tuổi; và vừa thăng chức đại úy thuyền trưởng đại chiến hạm trong vinh dự, trong cái tuổi mà người khác còn trong cấp bực thứ yếu. Không phải vì thiếu sĩ quan mà ông đã được thăng cấp, tiếng vang từ Paris cho biết: chính tiếng nói của chỉ huy trưởng và của cả đoàn quân viễn chinh đã đem đến cho ông cấp bực ấy. Nhưng ông đã ngã xuống khi vừa thấy đích, trợt chân trên một vũng máu. Chúng ta phải sống. Ông ta không còn nữa. Chẳng có gì xảy ra cả.

Ðại úy hải quân Desvaux [11] nhận quyền điều khiển các pháo hạm thay thiếu t14], không hành quân nữa. Việc tưởng niệm một ngưòi chiến hữu thì toàn thể quân sĩ ai cũng cho là phải nhưng đã làm ngưng trệ việc hành quân: làm cho cả đoàn quân mất công đầu, tức là chiếm My-thô trước tiên. Chỉ chậm trể có vài giờ mà đành mất ưu thế: My-thô đã lọt vào tay chuẩn đề đốc Page.

Ðêm 11 tháng tư, lại có thêm quân bổ xung từ Saĩgon xuống nhập vào đoàn viễn chinh: vì ta chưa biết chắc là chỉ cần trở bàn tay để chiếm thành hay phải vây hãm lâu dài. Viện binh gồm có một đội pháo binh nòng 12 có ngựa kéo, phân đoàn 4 pháo binh mang theo ngựa và xe tải đạn, vì cho đến giờ này ta vẫn phải dùng sức người thay ngựa. Ngày 12 tháng tư, tất cả đạo quân đều tụ họp tại làng Tam-léon; tiền quân ta đóng cách thành địch chỉ có một ngàn năm trăm thước; trung úy Aigueparses chỉ huy toán tiền quân gồm năm mươi bộ binh đóng tại một bìa rừng cau và dừa, phía sau khu rừng dừa là thành phố My-thô. Ðường cái đã làm lại, tất cả các cầu cũng bắc lại. Ðoàn pháo hạm bỏ neo phía trước đạo quân một quảng ngắn, cách thành địch một ngàn năm trăm thước, pháo hạm bắn vào thành bẩy quả đạn súng cối có khía. Vào khoảng 11 giờ sáng, ta thấy một đám khói bốc lên ngay cửa vào tỉnh My-thô. _ Quân viễn chinh qua nhiều lần tăng viện, đã trở thành một lực lượng chín trăm người. Riêng dàn pháo binh, không kể đại pháo trên tàu sa-lúp và các ca-nô vũ trang, đếm được mười tám miệng lửa, trong số này có sáu súng cối._Ngày 13 tháng tư, đã biết rõ địa thế nên quân ta tiến lên:gồm công binh mang thang, súng cối miền núi, hỏa tiển, bốn đại đội thủy quân đánh bộ. Ta cũng bố trí để phòng hờ địch tấn công ta từ bên ngoài thành: bằng cách cho đại đội 4 bộ binh làm xung kích đi trước dò đường và tìm vị trí thuận lợi để tấn công. Trung tá du Quillio đang nghĩ cách ra tay đánh úp vào thành. Khi quân ta tiến gần khoảng cách chỉ còn bằng tầm đạn của địch thì lại thấy cờ tam sắc phất phới trên tường thành từ lúc nào rồi. Ngày hôm sau, 14 tháng tư, quân sĩ mới kéo vào bên trong thành.

Ðoàn chiến hạm của chuẩn thủy sư đề đốc Page, tiến từ cửa biển vào theo đường thủy mà ta đã khổ công dò tìm; hạm đội oanh liệt và gan dạ phá chông trên sông Cambodge dưới lằn đạn của địch tiến đến sát thành My-thô khoảng hai giờ sáng ngày 12 tháng 4. Thành đã bỏ trống, thủy thủ đoàn chiếm thành không phải nổ một tiếng súng nào cả.

Một mặt đoàn thám thính của ta sáng ngày 10 tháng 4 đã tiến đến thẳng trước mặt thành My-thô, một mặt đoàn pháo hạm cũng oanh liệt tiến lên làm cho quân địch mất tự tin; đến đêm 11 một đoàn trinh sát khác của ta lại xáp đến gần thành chỉ còn cách 200 thước, đồng thời trên sông Cambodge đoàn chiến hạm của thủy sư đề đốc Page cũng bắt đầu nhả đạn, người An nam bị áp lực ở mặt tiền tuyến và cả hậu tuyến. Họ rút lui.

Sự trùng hợp có vẻ bất ngờ của hai lực lượng xử dụng hai phương tiện hành quân khác nhau thật sự đã được nghiên cứu trước và chuẩn bị từ trước. Ngày 6 tháng 4, vị phó đề đốc Charner cho chỉ huy trưởng chiến dịch My-thô biết trước là có thể trông cậy vào một lực giúp sức hiện diện kịp thời trên sông Cambodge;’’Hai tàu Lily và Sham-Rock, vắng mặt từ tám hôm nay, không theo đoàn quân chiến dịch My-thô; ý đồ của tôi là cho hai pháo hạm đi theo hai tàu này để cố tìm đường biển đưa vào sông Cambodge.’’._Vị chỉ huy trưởng phải chờ đến ngày 8 tháng tư mới có thể thẩm định được việc di chuyển của hạm đội trên sông Cambodge từ cửa biển vào và khả năng phòng thủ của địch hai bên bờ. Trên bờ đạo quân viễn chinh cũng tỏ ra đang thắng thế và sắp tiến đến gần My-thô. Lúc này chính là lúc có thể phối hợp hai đạo quân: một từ biển vào và một do chỉ huy du Quilio dùng sông rạch để đem quân đến My-thô Vì vậy trong ngày 8 tháng tư phó thủy sư đề đốc Charner đưa các lời huấn thị như sau cho chuẩn thủy sư đề đốc Page còn đang đóng quân gần Bien-hoa:

‘’Tôi giao cho ông hai tàu Lily và Sham-Rock, sau khi thăm dò sông Cambodge xong sẽ bất thần quay về Saĩgon để được tiếp tế.

‘’Ông có thể trương cờ hiệu của ông trên bất cứ chiến hạm nào trong đoàn chiến thuyền mà ông thích: trên chiến hạm Fusée, Lily, Sham-Rock, hay cả trên chiếc Dragonne cũng được, tàu này hiện đang giữ vị trí tiền quân của ta.

‘’Ông phải hành động cẩn thận, ông phải hết sức nỗ lực theo đường biển ngược sông Cambodge để đánh My-thô, trong khi đó trên bộ đoàn quân viễn chinh sẽ ngược Rach-run-ngu đánh liên tục vào thành.

‘’Tôi tiếc rằng, ngoài số quân và chiến hạm sẵn  có, tôi không thể giao cho ông hơn nữa. Ðiều tối quan trọng dưới mắt tôi là kết quả trận này có thể tháo gở cho hoàn cảnh khó khăn của ta hiện nay. Hạm đội của ông xuất hiện trên sông Cambodge chắc chắn sẽ đánh lạc hướng quân địch, góp phần làm cho My-thô mau xụp đổ và làm cho quân thù phải sớm điều đình.

Chuẩn thủy sư Page rời Bien-hoa ngày 10 thang 4, vào 10 giờ sáng, bằng tàu Fusée do đai úy Bailly điều khiển. Theo sau có tàu Lily và Sham-Rock. Ông vượt các bãi cạn ở cửa sông Cambodge, gần đó có tàu Dragonne do đại úy Galey đang thả neo làm tiền đồn; đại pháo hạm Dragonne cũng tháp tùng theo dẫn đầu và chỉ đường cho cả hạm đội. Vào hai giờ sáng thì hạm đội thả neo cách đập thứ nhất 400 thước. Thật may mắn cho ta đêm tối đen chưa từng thấy, không có một ánh sao nào trên trời, ta phá cọc và cừ để lấy đường cho tàu; trong khi đó các đồn địch bắn loạn xạ. Sáng ngày 11, hạm đội ngược sông Cambodge bằng nhánh phía nam nhưng lại phải ngừng lại nơi đầu một hòn đảo vì có đập chắn; hòn đảo chia sông thành hai nhánh (nhánh nam và nhánh bắc). Hai bên đập có đồn canh giữ, mỗi đồn có 18 khẩu pháo. Ngày 12 tháng tư, đoàn tàu nã pháo vào hai đồn, đồng thời phá cừ cọc để đi. Vào một giờ rưỡi trưa, hạm đội thả neo trước thành My-thô chỉ cách thành có 200 thước; nhưng thành My-thô đã di tản trước đó ba giờ đồng hồ rồi. Thủy thủ đoàn của hạm đội do trung úy hải quân Desaux hướng dẫn chiếm thành và thượng cờ tam sắc. Ðạn súng cối do cánh quân trên bộ của ta phóng vào thành trong các ngày 12 và 13 tháng 4 may mắn không trúng quân sĩ nào của ta trong thành.

Sông Cambodge nằm vào mặt nam của thành phố My-thô, sông Run-ngu nằm bên phía đông. Ðối với kinh Bưu điện thì thành phố nằm trên hữu ngạn. My-thô là một vùng nhà cửa rộng lớn, nhà lợp bằng lá dừa lùn theo tập quán của người An nam, nhìn xa giống như nhà lợp rơm của ta. Bộ mặt chung của thành phố có vẻ nghèo nàn; nhưng dọc theo kinh Bưu điện thì nhà cửa có vẻ thanh nhã một cách đáng nể; nhà xây cất theo lối nông thôn, nối nhau liên tục, mái lợp ngói nổi bật trên những vùng trồng dừa và cau, tất cả cho thấy vẻ phong lưu, thỉnh thoảng vài nhà tỏ ra thật giàu có. Ta chỉ có thể dùng cảnh hào hoa của Cho-quan và kinh Tàu mới có thể so sánh được cảnh tượng hai bên bờ Rach-run-ngu mà thôi. Cây dừa ở đây to lớn hơn các cây ta thấy ở Saĩgon: quân viễn chinh đánh My-thô uống thật là đã khát.

Thành My-thô xây cất theo lối Âu-châu. Thành vuông vức có ụ làm pháo đài. Hào chung quanh rộng có nước; tường thành cao rất dầy. Vài nơi chung quanh thành là đầm lầy, vì vậy sức phòng thủ do công trình nhân tạo còn có thiên nhiên hỗ trợ nữa. Khí giới của thành My-thô thì có đại pháo nòng lớn. Thành kiểm soát hết sông Cambodge và các đường thủy đổ vào sông này. Do đó thành có một vị trí chiến lược quan trọng. Hơn nữa My-thô còn là vựa thóc lại vừa là thị trường lúa gạo quan trọng của cả đế quốc An nam. Nếu trong mùa mưa mà đánh thành My-thô khi có thêm ba tỉnh miền nam hỗ trợ, thì quả thật ta không thể nào đánh nổi.

Vị phó vương của sáu tỉnh, trước khi bỏ thành, thả hết người thiên chúa giáo, ông nói với họ rằng ‘’Hãy cứ đi theo các bạn người Pháp của quý vị’’. Ðó là một gương nhân từ mà về sau cả người An nam và kể cả kẻ thù của người An nam tức là người Pháp chúng ta không ai làm nỗi. Ông cho đốt hết các kho nhà nước,và cả các xâu tiền kẽm. Ta chẳng còn vớt vát được gì.

Gạo cháy dở dang bán giá rẻ mạt chỉ để nấu rượu gọi là sam-chou[15], một loại rượu trắng của người An nam. Tiền kẽm chỉ có giá khi còn bó lại thành xâu. Buộc lại thì công nhiều lắm, vì thế tiền mất hết giá. Tại các ụ đóng ghe ta cướp được vài thuyền quan thật đẹp bằng gỗ giá tị là một loại gỗ rất quí. Ta liền tu sửa các ghe cướp được, trang bị khi giới, đem tăng cường cho hạm đội của ta.

Quyết định của địch quân rút bỏ thành My-thô làm cả đoàn quân tăng viện do chỉ huy trưởng viễn chinh đưa từ Saĩgon xuống trở nên vô ích. Tóm lại tất cả cuộc hành quân chỉ gồm có giai đoạn chuẩn bị chớ không đánh đấm gì cả, thôi cũng là chuyện may. Tin thắng trận My-thô đến tai của vị chỉ huy trưởng và đại tướng de Vaissoigne khi hai ông thân hành đi thăm mặt trận Mỹ thô. Chiến thắng giúp cho vị chỉ huy có thể lần lượt phân phối đưa quân đội giữ nhiệm vụ ở các nơi khác, Quân lính hầu hết là quân tình nguyện. Trước khi thành My-thô mất đã có vài đám mưa rào báo hiệu mùa mưa đã tới, mưa gây ra tình thế càng ngày càng khó khăn hơn, có vẻ như muốn cho thấy là ý kiến của những người trước đây chống lại việc tiến đánh My-thô là có lý. Thư từ quân lính gửi đi theo từng chuyến định kỳ, tức ngày 11 tháng 4, chắc phải nhắc tới việc này. Nhưng thành My-thô lại mất quá sớm vào ngày 12 tháng tư; vì thế khi tàu đưa thư Écho đến Singapour thì trong số thư chống lại việc tiến đánh My-thô cũng có cả thư báo tin chiến thắng thành My-thô gửi về Pháp.

Ðề đốc thủy sư cử một sĩ quan đóng tại My-thô đại diện cho ông ở đây: trước khi rời My-thô ông hoạch định cho vị sĩ quan này những gì phải làm và những gì không nên làm.’’ Quyền lực của ông là quân binh, hành chính và chính trị. Ông đừng quên là kẻ thù còn trước mặt: vậy phải bảo trì pháo binh và bộ binh. Vùng lãnh thổ tứ giác giữa các sông Cambodge, Bưu diện, Thương mại và khúc sông Vaĩ-co tây là do quân ta chiếm cứ. Dân chúng sẽ được thông báo về việc thành lập lãnh thổ ta bằng một tuyên cáo. Ðối với người dân lương thiện ông áp dụng sự công minh, khoan dung và nhã nhặn. Ông chống lại cướp bóc để che chở họ. Ông không nên tìm cách tự ý bành trướng việc chinh phạt của người Pháp. Dân chúng ở phía bắc vùng tứ giác ta nên xem như đồng minh hơn là kẻ thù. Giải hết tù về Saigon. Chuyển hết thương mại về Saĩgon. Saĩgon phải là trung tâm thương mại duy nhất của ta.’’ Nhờ sự tín cẩn đặc biệt của thủy sư đề đốc đối với mình nên đại úy hải quân Devaux mới được giao những trọng trách lớn lao như vậy trong suốt mấy tháng đầu tiên sau khi chiếm My-thô. Phó thủy sư đề đốc chỉ huy trưởng, trước khi quay về tổng hành dinh ở Saĩgon, đã giải quyết hết những gì liên hệ đến việc phòng thủ My-thô: bốn trăm người đóng giữ thành. Ðại pháo của hải quân thì đem dùng trang bị cho thành mới chiếm.

Toàn thể pháo binh đánh bộ trở về Saĩgon, quân sĩ pháo binh trở lại đóng chỗ cũ trong thành phố Tàu và dọc theo các chùa như trước kia để chờ qua hết mùa mưa. Tình trạng sức khoẻ của quân lính đi đánh My-thô suy xụp một cách nghiêm trọng; vào cuối tháng tư, các bịnh viện chật cứng bịnh nhân sốt rét và thổ tả. Trong lúc đánh nhau con người sống một đời sống giả tạo: khi nghỉ ngơi, ta cứ tạm cho như vậy, thì sự thực lại trở về với họ, vi trùng của tinh thần và thể xác phát sinh và bành trướng: tình thần buồn nản, xác thân rã rời. Mùa mưa thật sự đến rồi, cả Nam kỳ miền nam biến thành một vùng đầm lầy mênh mông. Bầu trời mất hết vẻ trong sáng: từng chập trời đổ mưa như thác. Chỉ có cảnh xanh tươi của miền nhiệt đới là tồn tại, ngoài ra chẳng có gì khác hơn là màu tối tăm của mưa dông đầy trời. Mùa màng thay đổi trên quê hương ta hình như cũng phù hợp với bản tánh dễ biến đổi của ta. Nơi xứ Nam kỳ y trang muôn thuở của thiên nhiên, lúc nào cũng như nhau, tạo cho ta một nỗi buồn thảm vô biên[16] Dịch tả vẫn hoành hành: nạn nhân vẫn lẩn quẩn trong đám quân đi đánh My-thô. Vị chỉ huy tiểu đoàn của công binh là Allizé de Matignicourt chết liền sau khi ngã bịnh có hai ngày. Thế là kỳ viễn chinh sau hết đã làm thiệt mất hai vị sĩ quan lớn. Trung tá Bourdais bị quân thù giết; trung tá Allizé, kém may mắn hơn không có cái vinh dự đó, đã bị dịch thổ tả mang đi. Dịch tả trong mười lăm ngày đã gây chết chóc nhiều hơn là đại pháo và súng bắn trong một trận hỗn chiến.

  Ðám táng của ông là một tang lễ thật lớn. Gần như tất cả sĩ quan của toàn thể đạo quân viễn chinh đều hiện diện: công binh, pháo binh, thủy quân, bộ binh, thủy quân đánh bộ, các cơ quan bịnh viện đều có cử người đại diện. Ðoàn người đưa đám chật ních cả nghĩa trang của người An nam, mà bây giờ đây đang chôn đầy người Pháp. Mười hai cái hố đào sẵn ở nghĩa trang ngập nước do cơn mưa từ tối hôm qua, mưa đã biểu lộ sự đau đớn của mình bằng màu nước hòa với chất sét trong đất trở nên đỏ như máu. Gió mùa tây-nam lộng hành mang đến cho bầu trời những đám mây màu chì: một cảnh nữa đêm nữa sáng bao phủ mặt đất, buồn thảm hơn cả một ngày nhật thực. Mưa trút như thác đổ: hình như có sự giận dữ nào đó đã vơ hết mưa gió để ném xuống mặt đất từng mảng lớn [17]_ Những nỗi niềm chán nản và yếu mềm đã thấy xuất hiện trong nhóm dân đi chiếm thuộc địa. Mục đích của chúng ta trở nên tối tăm: ta tự hỏi biết bao nhiêu nhân mạng phải hy sinh để được lợi ích gì đây? Chung quanh ta đều thiếu thốn tất cả, thiếu cả trời cả đất; xem kìa những lỗ huyệt há hốc sẵn sàng chờ đón ta, khép kín bạn hữu của chúng ta, giống như những tiếng điểm danh của con Quái vật sẵn sàng ngấu nghiến chúng ta. Ta chỉ biết khẩn cầu và chờ đợi một tiếng nói vương lên giúp ta sức mạnh và chịu đựng để chống chỏi với những tại họa này. Bỗng có một người bước ra[18], tiến đến bờ huyệt cất lên những lời nói đó:

‘’Thưa quí vị, người ta nói rằng mãnh đất này, để trả thù cho việc xâm lược của ta, đã nuốt sống cái tinh khiết nhất của dòng máu chúng ta. Chính vì thế, mà chúng ta đã nhìn thấy tận mắt những vị chỉ huy của quân đoàn nổi danh đã ngã xuống, như Labbé, Deroulède, Livet; và ngày hôm nay một lỗ huyệt mở ra để đón phần thân xác của trung tá Allizé.

‘’Cái chết của trung tá Allizé là một cái tang chung. Các vị chỉ huy của ông tôn vinh ông vì kiến thức rộng rãi của ông và sự can trường vững chắc của ông; thuộc hạ của ông thương mến ông vì tính tình nhã nhặn của ông. Ông đã đem đời mình đóng góp cho công cuộc đánh chiếm My-thô: sự hy sinh đời sống cao cả của ông làm cho chúng ta vững tâm hơn là làm cho chúng ta xao xuyến; sự hy sinh này rồi đây sẽ làm nẩy nở được chăng công trình mà tất cả chúng ta bắt buộc phải làm!’’

[1] Arroyo de la Poste: trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[2] Trong các bản đồ mới nhất ghi là Rach-vung-ngu, (ghi chú của tác giả).

[3] Arroyo Commercial trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[4] Arroyo Chinois trong nguyên bản, (ghi chú của người dịch).

[5] Chính phó thủy sư đề đốc Charner chỉ huy trận đánh My-thô

[6] Một đại đội thủy quân đổ bộ, đại đội 7, đại úy Galache điều khiển ; hai súng cối nòng 16 và 200 quả đạn cho mỗi khẩu, trung úy pháo binh Savilly trách nhiệm diều khiển; hỏa tiển chiến thuật ; 1 tàu sa-lúp trang bị một súng cối nòng 15 do trung úy hải quân Vicaire điều khiển ; pháo để phá các đập chắn ; các tấm tôn để sửa chữa các pháo hạm bằng sắt bị thủng. Trung úy hải quân Delassaux, giữ vai trò quản lý đạo thủy quân đổ bộ đi cùng tàu với vị chỉ huy là Desvaux.

[7] Ðon vị đo chiều dài khoảng hơn 30 cm, (ghi chú của người dịch).

[8] Tức Rach-run-ngu (ghi chú của người dịch).

[9] Xem bảng hình 3, nơi nào có cây cối đều vẽ rõ, phần còn lại là ruộng.

[10] Sau này người ta mới biết rằng cỗ đại pháo đặt tại một ụ đóng ghe của tỉnh My-thô, (ghi chú của tác giả). Cách mô tả cho ta thấy là tác giả hiện diện trong nhóm trinh sát này, (ghi chú của người dịch).

[11] Cấp bực của Bourdais là capitaine de vaisseau, cấp bực của Desveaux là capitaine de frégate, vaisseau là đại chiến hạm, frégate là hộ tống hạm hay chiến hạm cở nhỏ ba cột buồm, (ghi chú của người dịch).

[12] Trong ngành hải quân thường có thói quen tăng cấp chỉ huy lên một bậc, (ghi chú của người dịch).

[13] Ðây là cách viết nữa chừng của tác giả : quân sĩ chia làm hai phe, một phe muốn làm đám tang cho thiếu tá Bourdais, một phe muốn tiếp tục tiến quân, (ghi chú của người dịch).

[14] Ðồn nơi đại úy đại chiến hạm Bourdais gục ngã được đặt tên là đồn Bourdais, theo chỉ thị của tổng tư linh viễn chinh. Xác của vị chỉ huy Bourdais được mang về My-thô.

[15] Người dịch không đoán ra được tiếng An nam thật sự viết như thế nào, (ghi chú của người dịch).

[16] Trời mưa tác giả nhớ nhà, (ghi chú của người dịch).

[17] Tác giả tả mưa ở một xứ nhiệt đới rất tài tình, lại phù hợp với hoàn cảnh chết chóc và tâm trạng của người lính viễn chinh. Quả thật là khéo, (ghi chú của người dịch).

[18] Ta có thể đoán người này chính là tác giả? Ông không bao giờ để lộ cái tôi của mình qua suốt quyển sách, ta phải chú ý lắm mới thấy hình bóng và ý tưởng của tác giả phía sau những câu chuyện và những lời mô tả. Quả thật là tài tình. Những lời phân ưu bóng bẩy và sâu sắc trước lỗ huyệt của trung tá Allizé lại càng làm cho ta tin hơn chính là những lời của tác giả.

                                                                             (Tiếp Theo)


  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...