Thứ Ba, 23 tháng 12, 2014

NHỮNG TẤM HÌNH MỘT THỜI XA XƯA

















  Hình do các bạn:
 Trần Tử Lành, Nguyễn Văn Hoàng, Valia Thu Hà, Phuong Luon,...cung cấp




Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014

MÙA GIÁNG SINH 2014 
NHỚ VỀ NHỮNG MÙA GIÁNG SINH XƯA

                    Lại một mùa giáng sinh nữa về, một năm nữa sắp ra đi. Chúng ta càng ngày già đi phải không các bạn? Mỗi lần giáng sinh về lòng tôi dâng lên một niềm nhớ nhung về những ngày tháng đã qua đi. Đó là những mùa giáng sinh mà tôi còn khoác trên mình chiếc áo học trò; những mùa giáng sinh mà tiếng súng vẫn còn vang lên đó đây trên quê hương. 
                   Ngày đó Noel nằm trong trí tưởng tượng của tôi qua những bài lecture hay recitation với những ngôi nhà chìm ngập trong tuyết, những cây thông vi vu trong gió lạnh và những câu chuyện cổ tích le petit poucet, ông già noel cùng đám tuần lộc đi phát quà,...hay mơ màng qua những tấm thiệp mua được của người bán thiệp cũ bên hông trường Colette và những hang đá có chúa hài đồng bên các con cừu hà hơi ấm. Tôi còn nhớ ba tôi dẫn tôi chơi mỗi đêm noel đến qua nhà thờ Tân Định hay xuống dãy đường Nguyễn Huệ trong tiếng nhạc giáng sinh, nhìn những cây thông trang trí dây kim tuyến và đèn màu rực rỡ, nhìn một cách thèm thuồng những món đồ chơi xinh xắn mà không bao giờ có cơ hội sở hữu được chúng. Tôi còn nhớ mỗi mùa giáng sinh như vậy tôi thường đạp xe ra đường Phan Đình Phùng tới chổ sở lâm nghiệp xem những cây thông được mang từ Đà Lạt về bán.


                      Ngày đó Noel là một niềm vui của mọi người, là một giây phút yên bình không tiếng súng để mọi người hân hoan chào đón ngày chúa ra đời. Ở xóm của tôi ít có nhà theo đạo thiên chúa nên không khí đón Noel không rộn rịp bằng những xứ đạo như khu ngả ba Ông Tạ, ngả tư Bảy Hiền hay các xứ đạo người Bắc di cư dọc trên đường đi Đà Lạt. Đêm Noel mọi người khoác áo quần mới lũ lượt tới nhà thờ đi lễ trong ánh đèn trang trí rực rỡ của các căn nhà hai bên đường; còn lại những người không theo đạo cũng tràn ra khỏi nhà đi chơi đêm.


                     Còn tại Sài Gòn chung quanh nhà thờ đầy ắp dòng người nối đuôi theo những con đường Thông Nhất, Tự Do, Nguyễn Huệ, Lê Lợi trong không khí se lạnh đêm giáng sinh cười nói vang lên. Những ai không thích đi thì ngồi trong quán cà phê Givral, Pole Nord, la Pagode nhìn ra dòng người hay thích la cà thì phóng xe theo các con đường tấp nập. Trời về khuya khi nhà thờ xong lễ dòng người cũng thưa thớt dần trả lại sự yên bình hiếm hoi cho thành phố.


                   Đó là không khí Noel ngày xưa. Ngày nay cái không khí ấy vẫn còn với những cửa hàng bày bán đủ loại đồ giáng sinh hơn ngày xưa, người người vẫn đổ ra đường nhưng trong tôi vẫn tìm hoài cái không khí thật như ngày nào không còn nữa.

                                 Bài Mon beau sapin là bài tôi rất thích hồi còn nhỏ


                                         Bài Silent night (Đêm thánh vô cùng)

Thứ Bảy, 20 tháng 12, 2014

TỪ KHÁM LỚN ĐẾN THƯ VIỆN QUỐC GIA SÀI GÒN

                  Những thế hệ của các bạn cũng như tôi khi nghe đến cái tên này đều không hình dung được nó to lớn cỡ nào vì nó đã bị phá bỏ vào năm 1957 để thế vào một công trình khác mà tôi sẽ kể vào đoạn sau; nhưng với các thế hệ cha ông của chúng ta khi nhắc tới từ "khám lớn" ai nấy cũng rùng mình kinh sợ. Nó là nơi giam giữ thứ nhất là những người chống đối lại chính quyền thực dân Pháp bất kể những người đó là cộng sản hay không cộng sản, thứ hai là những thành phần hình sự nỗi cợm, thứ ba là nó giam giữ bất cứ tuổi tác nào. Có rất nhiều tên tuổi đã từng bị giam giữ ở đây mà trong đó một sự kiện nổi tiếng là Lý Tự Trọng một tù nhân cộng sản đã bị xử chém, chính vì vậy mà chính quyền thành phố mới bỏ tên đường Gia Long để đặt vào đó tên Lý Tự Trọng.
                    Những hình ảnh về khám lớn rất hiếm để minh học cho bài viết này nếu các bạn muốn xem những hình ảnh bên trong khám lớn hãy đọc cuốn viết về khám lớn của ông Vương Hồng Sển.

                   1. Sơ lược lịch sử:
                        Năm 1886, người Pháp xây dựng tại trung tâm thành phố Sài Gòn một nhà giam tù nhân, gọi là Khám Lớn Sài Gòn (Maison Centrale de Saigon) do kiến trúc sư A. Foulhoux, đến năm 1890 thì xây xong. Khám này thay thế cho một khám đường đã có trước được xây dựng bởi J. B. Chatian năm 1863. Công trình tọa lạc trên nền đất mà xưa kia là chợ Cây Da Còm. Theo học giả Trương Vĩnh Ký, sở dĩ chợ có tên là Cây Da Còm, vì nó họp dưới gốc một cây đa nhánh còm, lá gie khòm xuống mặt đất. Ngày xưa, nơi đây chuyên bán trống, bán lọng, yên ngựa và mũ tú tài và có một xưởng đúc tiền. Ban đầu, khám dài khoảng 30m và rộng 15m, có lối đi hẹp ở giữa hai dãy khám, mặt chính được rào bằng những song sắt, vách tường sơn đen, chỉ chừa cửa sổ nhỏ ở trên cùng, rất ngột ngạt. Bên trong phòng giam, nền tô bằng xi măng, các tù nhân đều nằm trên sàn, một chân đút vào cái cùm dài suốt chiều dài xà lim. Ở đây, còn có một xà lim (cellule) dành cho tù nhân lãnh án tử hình. Đó là một hầm 3mx5m, ba mặt là tường kín và mặt còn lại là một cửa sắt có đục lỗ nhỏ. Thiết kế như vậy, cốt vừa để thông hơi, vừa để lính canh từ bên ngoài có thể quan sát bên trong phòng giam. Vào đêm 14 ngày 15 tháng 2 năm 1916, một nhóm vũ trang đã tấn công vào khám lớn không thành công giải thoát cho các tù nhân.

                    Tuy nhiên, vì thiếu ánh sáng, vệ sinh lại kém nên tù nhân dễ bị bệnh tật và thực tế ở đây luôn phát sinh các loại bệnh nguy hiểm. Sau một thời gian, do số tù nhân tăng lên, khám phải xây thêm nhiều phòng mới, tường cao bao quanh, gồm hai dãy nhà một tầng và hai dãy nhà trệt, phân chia thành nhiều khu vực để giam cầm nhiều hạng tù khác nhau.
Khám Lớn Sài Gòn trở thành khám đường lớn nhất Nam Kỳ lục tỉnh bấy giờ, giam giữ tra tấn tù nhân người Việt, người Hoa lẫn người Âu, có lúc lên tới 1.500 - 2.000 người. Nhiều người nổi tiếng đã từng bị giam giữ tại đây như Nguyễn An Ninh, Phan Xích Long, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Tống Văn Trân, Lý Tự Trọng... Trong khám có khu biệt giam tù chính trị, xà lim án chém, phòng để máy chém và khu hành quyết tù nhân.
                Theo các cứ liệu lịch sử, Khám Lớn Sài Gòn được xây giới hạn bởi bốn con đường Lagrandìere (Gia Long), Mac Mahon (Công Lý), Espagne (Lê Thánh Tôn) và Filippini (Nguyễn Trung Trực). Đối chiếu với thực địa hiện nay, khám nằm trọn trong khuôn viên Thư viện khoa học tổng hợp TP.HCM. Dưới thời thuộc Pháp, Khám Lớn Sài Gòn cùng với Tòa án Sài Gòn (xây năm 1881-1885) và Dinh Thống đốc Nam Kỳ (xây năm 1885-1890) nằm ở ba góc tạo thành "tam giác quỷ" là "biểu tượng" cho bộ máy thống trị của chế độ thực dân ở Nam kỳ lục tỉnh. Đến ngày 8/3/1953, Thủ tướng Quốc gia Việt Nam lúc bấy giờ là Nguyễn Văn Tâm (cầm quyền từ 23 tháng 6 năm 1952 đến 7 tháng 12 năm1953), liền cho phóng thích một số tù nhân ở Khám Lớn Sài Gòn, số còn lại khoảng 1.600 người cùng với chiếc máy chém, được chuyển về khám đường mới, tức Khám Chí Hòa.
                   Kể từ khi ấy, Khám Lớn Sài Gòn chỉ còn là nơi giam giữ phụ và sau đó đã bị chính quyền Việt Nam Cộng Hòa cho phá hủy, để xây lên đó Trường Đại học Văn Khoa (thành lập năm 1957, trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn). Đến thời Đệ Nhất Cộng Hòa, khu đất này được sử dụng làm nơi triển lãm các sản phẩm công nghệ gì đó. Không biết do cơ duyên nào, khu vực tứ giác này về sau trở thành bản doanh đóng đô bởi những trường học, cơ quan, hội đoàn...: Đại Học Văn Khoa (trường cũ) – CPS - Hội Nhu Đạo - Hội Kiếm Thuật – Quán văn – Ca Đoàn Nguồn Sống - Hội Họa Sĩ Trẻ v.v.

       (Nguồn historicvietnam.com do Tim Doling viết, Wikipedia và các trang mạng khác)




Vị trí cổng chính khám lớn so với hiện nay



                                       Máy chém tại khám lớn nhập từ Pháp sang

                         2. Trường đại học văn khoa Sài Gòn và nữ hoàng chân đất Khánh Ly:

                            Tiền thân của Trường Đại học Văn khoa là Trường Đại học Văn khoa Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Phan Huy Quát cho thành lập vào năm 1949 thời Quốc gia Việt Nam. Hoạt động của Trường trong những năm kế tiếp bị gián đoạn vì tình hình chính trị. Mãi đến năm 1955, thời Đệ nhất Cộng hòa, Trường Đại học Văn khoa mới được ưu tiên phát triển. Lúc đầu Trường Đại học Văn khoa cấp bằng cử nhân văn chương Pháp và Anh nhưng và phải đến năm học 1957-1958 thì chương trình cử nhân giáo khoa văn chương Việt Nam mới được hoàn thiện. Cũng năm đó chương trình cử nhân giáo khoa triết học cũng được xây dựng hoàn tất. Theo Nghị định số 66-GD/NĐ của Bộ Quốc gia giáo dục ngày 6 tháng Chạp năm 1955, Đại học Văn khoa sáp nhập vào Viện Đại học Quốc gia Việt Nam. Như thế, từ nguồn gốc đại học Văn khoa ở Hà Nội năm 1950, đến ngày 6 tháng Chạp năm 1955 đã có một đại học Văn khoa mới tại Sài Gòn làm thành viên của Viện đại học Quốc gia Việt Nam. Sau đó Sắc lệnh số 45/GD của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 1 tháng Ba năm 1957, Viện Đại học Quốc gia Việt Nam được đổi thành Viện Đại học Sài Gòn. Từ đây Đại học Văn khoa chính thức mang tên Đại học Văn khoa Sài Gòn, thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Thời kỳ đầu cả trường đại học Văn khoa sài Gòn chỉ có 5 ban (Việt-Hán, Anh văn, Pháp văn, Triết học, Sử-Địa), sau đó phát triển thành 8 ban (1962), 10 ban (1970).



Đại học Văn khoa lúc còn ở đường Nguyễn Trung Trực


               " Trường Đại Học Văn Khoa (cũ) tọa lạc trên một vuông sân thơ mộng.  Mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Trung Trực. Hông bên phải là đường Gia Long chạy dài tới Dinh Gia Long.  Phía trái làđường Lê Thánh Tôn.  Và sau lưng là Công Lý.  Khu tứ giác này về sau có nhiều hội đoàn đến đóng đô tạo nên một sinh hoạt khá sôi động, một thời kỳ tiêu biểu cho các hoạt động thanh niên sinh viên, văn hóa, xã hội v. v.
                Sau lưng trường Văn Khoa, ngay ở trung tâm điểm của khu tứ giác là một dãy nhà tiền chế được xây cất bằng vật liệu nhẹ (vách bằng rơm ép, mái tôn).  Dãy nhà này hiện diện từ hồi còn mồ ma Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nguyên được sử dụng cho hội chợ, phòng triển lãm, nhà trưng bày sản phẩm đặc biệt chi đó. Nguyên khu đất trống này hồi còn Pháp là khám lớn, nơi giam giữ các tội phạm chính trị. Thậm chí ở đây còn  nguyên bậc tam cấp lưu lại dấu tích nơi đặt máy chém xử tử các tội nhân. Bởi thế, có nhiều huyền thoại về thế giới âm hồn ma quỷ quanh quất khu đất này sẽ nhắc về sau.
               Phần lớn dãy nhà chính được dùng làm trụ sở của một cơ quan mang tên CPS.  Cái tên thoạt nghe như tên một cơ quan Mỹ.  Nhưng thật ra CPS là chữ viết tắt của Chương Trình Phát Triển Sinh Hoạt Thanh Niên Học Đường theo đề nghị của anh Lê Đình Điểu, một trong những nhân vật cốt cán điều hành chương trình.  Cổng chính vào trụ sở CPS nằm ở đường Gia Long. CPS trực thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục, là một cơ quan được sự trợ giúp của các tổ chức thiện nguyện quốc tế, chuyên trách về điều hành và xây dựng các sinh hoạt thanh niên sinh viên học sinh hướng về phụng sự xã hội.
CPS được coi sóc bởi một nhóm giáo chức trẻ, nhiều tâm huyết, là những người trí thức dấn thân mà tên tuổi trở nên rất quen thuộc về sau: Lê Đình Điểu, Trần Đại Lộc (đã khuất); Phạm Phú Minh ( tức Phạm Xuân Đài), Đỗ Qúy Toàn, Hà Tường Cát, Phan Văn Phùng … Thật ra, trước khi CPS chính thức sinh hoạt, cũng đã có những  chương trình chuyên trách về công tác xã hội như Chương Trình Hè 65, Chương Trình Công Tác Bạn Đường(?). Một trong những tay điều hành trụ cột của những chương trình này là ký giả lão thành Đỗ Ngọc Yến sau này của tờ Người Việt ở California.  Nếu tôi nhớ không lầm, Đỗ Ngọc Yến (đã khuất) cũng là một thành viên cốt cán của CPS dù không chường mặt trong ban điều hành. Tất cả những nhân vật trẻ nhắc trên đều là thành viên của Hội Đồng SángLập tạp chí Thế Kỷ 21 và một vài cơ quan truyền thông khác hiện nay ở Quận Cam, Cali.
Thử điểm qua một vài cứ điểm khác của khu đất trống kỳ lạ này:
-           Sau lưng trường Văn Khoa, cách một lối mòn, là căn phòng nhỏ của Nhóm Sư Địa chuyên in ấn cours cung cấp cho sinh viên (bằng kỹ thuật Ronéo, dĩ nhiên, vào thời đó). Chúng tôi thường gọi đùa Nhóm Sử Địa là ” những tay lái cua” của Văn Khoa.  Nhóm này quy tụ những đấng mày râu rất mồm mép, hễ gặp nhau là ồn ào náo nhiệt hẳn lên.  Điểm mặt quần hùng thấy có:  Phạm Quân Khanh,Nguyễn Minh Diễm, Vũ Hiệp, Lê Hoài Quỳnh, Nguyễn Tuyển, Bùi Hồng Sỹ, Trần Công Sung, Phạm Quốc Bảo, Đỗ Phan Hạnh v.v.
-          Sau lưng trụ sở CPS là dãy nhà hình chữ L,được chiếm hữu bởi Hội Nhu Đạo của GS Phạm Lợi và Hội Kiếm Thuật do ông Hoàng Việt, thân phụ của nhạc sĩ Nam Lộc làm trưởng tràng.
-          Qua bậc tam cấp, xuống hết con dốc thoai thoải là sân bóng chuyền.  Chiều chiều cư dân trong khu vực và anh em V
ăn Khoa sinh hoạt muộn chia phe đánh đấu ra gì!  Chỉ cá độ một chầu cà phê hoặc trà đá chanh đường cũng đủ mát lòng mát dạ.  Có những thân hình lực sĩ vạm vỡ thì cũng có những bộ xương cách trí xông pha chuyền bóng, đỡ bóng ngoạn mục không kém. Nhớ có lúc Trần Công Sung (tức ký giả Từ Thức) nhìn Đào Trường Phúc ( nhà thơ, Phong Trào phó Hưng Ca sau này) cởi trần đánh bóng cứ tấm tắc gật gù: ơ kìa! xem con hạc nó vờn banh.  Cũng chính ở sân bóng chuyền “lô can” này đã xuất phát được một tay kiệt hiệt về nghệ thuật chuyền bóng cá độ. Đó là hảo thủ Nguyễn Văn Hào (con của cụ Riêm, quản trường Văn Khoa mới). Hào chỉ cần sử dụng một cái ghế đẩu để chuyền bóng mà đối phương ba người được chấp phải chạy trối chết mới mong đở được những đường bóng hiểm độc của chàng ta.
-          Ngó xéo sân bóng chuyền là ngôi nhà nhỏ với vườn rau be bé xinh xinh của gia đình một nhân viên trường Văn Khoa khác. Gia đình này có cô con gái tên Phương về sau đánh bạn với Hoàng Xuân Giang em tôi.
-          Kế nhà Phương là trụ sở của Ca Đoàn Nguồn Sống.  Trưởng Đoàn là Nghiêm Phú Phát ít khi xuất hiện.  Người điều hành thường trực là Hà Quốc Bảo, người tròn trịa, vui tính.  Và bác sĩ Hoàng Cơ Trường, ít khi lộ diện.  Chính nữ ca sĩ Thanh Lan và nhiều tên tuổi khác cũng xuất phát từ ca đoàn này.
-          Sau rốt, day mặt ra đường Lê Thánh Tôn là trụ sở của Hội Họa Sĩ Trẻ: Chủ Tịch /Nguyễn Trung, Tổng Thư Ký / Hồ Thành Đức và nhiều khuôn mặt hội họa danh tiếng khác hằng lui tới sinh hoạt. Có thể kể: Nguyên Khai, Trịnh Cung, Đinh Cường, Nghiêu Đề, Mai Chửng, Hồ Hữu Thủ, Lâm Triết, Cù Nguyễn, Hiếu Đệ v. v. Một số đã trở nên thân thiết với bọn tôi về sau như Cung, Cường, Đề, Khai . . .Coi sóc Hội Họa Sĩ Trẻ  là hai cây cọ trẻ chịu chơi:  Mai và Bích." (Ký Tà áo văn khoa của Hoàng Xuân Sơn)
              Tại đây vào những năm đầu thập niên 60 hình thành môt hội quán gọi là quán Văn, sau đây là lời kể của Hoàng Xuân Sơn một trong những người sáng lập:
             " Trong ý nghĩ tình cờ nào đó của một ai đề xướng, Nhóm Sinh Viên Văn Hóa đứng ra thành lập Quán Văn (ông Đỗ Tăng Bí xác nhận qua điện thư ý kiến cho ra đời Quán Văn là của ông). Quán Văn, cái tên trở thành rất thân thuộc về sau là một trong những tụ điểm sinh hoạt văn nghệ tiên phong của thanh niên sinh viên học sinh rất có khí thế, có sức lôi cuốn mãnh liệt và tạo được nhiều tiếng vang trong những năm dài biến động. Có thể nói không ngoa: Chính Quán Văn đã đưa tên tuổi nhiều nghệ sĩ sáng tác, trình diễn đi sâu vào lòng thưởng ngoạn của giới trẻ và người mộ điệu. Từ Thanh Lan/ Từ Công Phụng đến Khánh Ly/Trịnh Công Sơn v.v. và nhiều ca nhạc sĩ, thi sĩ khác nữa. Sinh hoạt văn nghệ từ Quán Văn như một bàn đạp, dần đi sâu vào các khuôn viên đại học, đoàn thể và ngay cả tư nhân về sau. Quán Văn là tiền thân của Thằng Bờm, Hầm Gió, Hội Quán Cây Tre . . .
              Tưởng cũng nên nhắc lại, bọn tôi dù có tham gia các bang, nhóm riêng nhưng vẫn luôn luôn là thành viên của CPS1.Cơ quan này đã hỗ trợ đắc lực cho các sinh hoạt mang tính chất văn học nghệ thuật.
            Cuối năm 1966, đầu 67, anh em CPS tham gia công tác cứu trợ nạn nhân chiến tranh vùng giới tuyến Gio Linh/ Cam lộ/Đông Hà. Chiến dịch được mang tên Công Trường Thanh Niên Vùng Giới Tuyến gồm nhiều anh chị nhiệt tình hăng hái không nề súng đạn hiểm nguy mang vật liệu, phẩm vật đổ xô ra miền địa đầu dựng lại người dựng lại nhà cho đồng bào cật ruột. Một ngôi nhà mẫu bằng vật liệu thật nhẹ trong tinh thần cứu trợ khẩn cấp được tạm dựng trên khu đất trống trước thềm tam cấp, nơi Khám Lớn cũ hồi xưa đặt cỗ máy chém hành xử tội nhân, thoai thoải bước xuống sân cỏ rộng phía bên dưới. Lúc anh chị em sinh viên học sinh về lại Sàigòn sau gần một tháng trời công tác, ngôi nhà mẫu cứu trợ vẫn còn đó.
              Nhận thấy ngôi nhà tuy có vẻ sơ sài nhưng tọa lạc ở một địa điểm khá thơ mộng, anh em bàn thảo và nảy ra ý kiến dựng một quán cà phê văn nghệ làm nơi tụ họp thường xuyên cho giới trẻ, với vật liệu đơn sơ thô thiển, tự chế lấy bàn ghế, quày hàng v.v.Thế là phe ta hăng hái bắt tay vào việc. Mọi người đều đồng ý với tên đặt: Quán Văn. Vốn liếng sơ khởi là do đóng góp tài chánh của các thành viên Nhóm Sinh Viên Văn Hóa dưới hình thức đầu tư cổ phần. Nói nghe có vẻ to tát thế nhưng sự thật đa số anh em là sinh viên nghèo, còn đang theo đuổi việc học, còn ngửa tay nhận trợ cấp gia đình, nên tài khoản đóng góp cũng chỉ đủ chi dùng hàng họ cà phê nước ngọt lúc ban đầu.
              Nguyên tắc của Quán Văn là tự quản.Anh em luân phiên quản lý, coi sóc hàng quán mỗi tuần một lần. Đặc biệt chương trình văn nghệ chính thức được tổ chức mỗi tối thứ sáu hàng tuần, nhằm giới thiệu một tác giả hoặc một ban, nhóm đã, đang hoặc sẽ có những hoạt động mang tính văn nghệ. Tối thứ bảy, chủ nhật là văn nghệ tự do, bỏ túi, cây nhà lá vườn. Ngô Vương Toại và tôi Hoàng Xuân Sơn lo trang trí mỹ thuật, kẽ bảng hiệu, sắp xếp, bố trí bàn ghế, hàng họ.Trước mặt quán, hai chiếc dù nhà binh phế thải được căng ra làm nơi che mưa nắng.Dưới mái dù có khoảng mươi bộ bàn ghế chính thấp lè tè. Và phía dưới tam cấp, dốc đồi, trên thảm cỏ ... rải rác những ghế ngồi đủ kiểu đủ loại: thân cây cưa ngắn, ghế xe hơi cũ, thùng gỗ tạp, và thậm chí những két vỏ chai la de. Quán mang một dáng vẻ thô sơ, nghệ sĩ và rất là "sinh viên bụi ".
              Để tăng cường thêm nét duyên dáng cho Quán Văn, Ngô Vương Toại đã mời được một cô bạn gái ở cùng xóm trường đua Phú Thọ làm thâu ngân viên. Đó là Nhuệ Giang, vóc người nhỏ nhắn, xinh xắn với nụ cười duyên răng khễnh rất ư là thu hút, ưa nhìn. Nhuệ Giang tính tình vui vẻ, bặt thiệp và dễ mến, sẵn sàng làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi. Nhuệ Giang đã hóa thân làm Bông Hồng Quán Văn. Một cái tên tiền định. Mỗi tối đều có một chàng tình si đến cắm một đóa hồng rực thắm trên quày hàng Nhuệ Giang. Tất cả bọn tôi Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Giang Trịnh Công Sơn, Hoàng Ngọc Tuấn, Hoàng Xuân Sơn đều trở nên vô cùng thân thiết với Nhuệ Giang. Như anh em một nhà. Chỉ có chàng Trần Hiếu Lai công tử là lọt được vào mắt xanh của cô em gái. Được nhận làm gạc-đờ-co thường trực." Trích từ "Cũng Cần Có Nhau"  - phóng bút của Hoàng Xuân Sơn.


Quán Văn lúc mới thành lập. Từ trái: Ngô Vương Toại, Hoàng Xuân Giang, Trần Đại Lộc, Hoàng Xuân Sơn. Ảnh: Đỗ Việt Anh (Đỗ Tăng Bí) 1967


                            TCS và các bạn trẻ trên sân cỏ Quán Văn. (Collection - Đinh Cường)




                Chính tại nơi đây nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đưa ca sĩ Khánh Ly từ Đà Lạt về để hát nhựng bài của mình. Khi hát Khánh Ly thường bỏi đôi guốc của mình đi chân trần cho nên có biệt hiệu là "nữ hoàng chân đất" và cũng nhờ nơi này mà tên tuổi của Khánh Ly được mọi người biết đến.
khu đất này đã sản sinh ra một đội ngũ văn nghệ đông đảo, thành danh, rất hùng hậu tiêu biểu cho một thời kỳ sinh hoạt thanh niên sinh viên rầm rộ của thập niên sáu mươi (có thể nói rộng hơn: khu đất khám lớn cũ là tụ điểm xuất phát của nhiều tài năng, trong đó có những người đã thành danh, có người mới phất). Có thể kể về ca nhạc (sáng tác và trình diễn) có Phạm Duy, Trịnh Công Sơn, Từ Công Phụng, Nguyễn Đức Quang, Hoàng Xuân Giang, Ngô Mạnh Thu, Giang Châu...; Khánh Ly, Thanh Lan, Hồng Vân, Diễm Chi, Phương Oanh, Ban Tam Ca Đông Phương, Ban Trầm Ca, Ca Đoàn Nguồn Sống, Phong Trào Du Ca v.v (chưa kể những khuôn mặt văn nghệ nổi tiếng sinh hoạt ở những tụ điểm ngoại vi nhưng có liên quan đến Quán Văn như Lê Uyên Phương ở Thằng Bờm, Vũ Thành An/Thế Dung, Phạm Trọng Cầu ở Hội Quán Cây Tre). Về văn thơ, báo chí, viết lách có Đỗ Quý Toàn, Hoàng Ngọc Tuấn, Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Phạm Quốc Bảo, Phạm Xuân Đài, Đào Trường Phúc, Trần Công Sung, Hồng Khắc Kim Mai, Nguyễn Đạt, Cao Huy Khanh, Đặng Phùng Quân, Cung Vĩnh Viễn, Bùi Bảo Trúc, Lê Thiệp, Đỗ Ngọc Yến, Y Dịch (Lê Đình Điểu), Phan Thanh Tâm, Ngô Vương Toại, Nguyễn Huỳnh, Cao Sơn (Nguyễn Văn Tấn) v.v. Về hội họa có Nguyễn Trung, Đinh Cường, Trịnh Cung, Hồ Thành Đức&Bé Ký, Nghiêu Đề, Mai Chững, Lê Thành Nhơn v.v. Phát về quan chức công quyền có Lê Đình Điểu (Cục Trưởng, bộ Dân Vận và Chiêu Hồi), Hoàng Ngọc Tuệ (Giám Đốc, Bộ Thanh Niên), Bùi Bảo Trúc (Phát Ngôn Viên Chính Phủ, Tham Vụ Ngoại Giao)...Và một số lớn anh em khác làm việc cho cơ quan Dân Vận Chiêu Hồi cũng mang các chức quyền ngang cấp Chánh Sự Vụ, Trưởng Ty v.v. như Ngô Vương Toại, Đỗ Việt Anh, Trần Đại Lộc/Hà Tường Các/Phạm Phú Minh (?), Nguyễn Viết Tân, Vũ Thành An, Bùi Hồng Sỹ, Hồng Khắc Lê Minh..." Trích từ "Cũng Cần Có Nhau"  - phóng bút của Hoàng Xuân Sơn.
              Năm 1967 trường đại học văn khoa được dời về số 10 Cường Để (nay là đường Đinh Tiên Hoàng, Q.1) – nơi từng là trại lính của trung đoàn pháo binh thuộc địa số 11 của quân đội Pháp và sau đó là doanh trại của lữ đoàn liên quân phòng vệ Tổng thống thời Ngô Đình Diệm.

           3. Thư viện quốc gia Sài Gòn:
             Trước khi đề cập tới thư viện quốc gia, dưới đây là vài dòng về lịch sử hình thành thư viện tại Sài Gòn từ thời Pháp thuộc và sau đó:
                Giai đoạn trước năm 1968:
               Năm 1868, Thư viện các Đô đốc, Thống đốc Nam Kỳ (hay Thư viện Soái phủ Nam Kỳ) được thành lập theo sắc lệnh của Phó Đô đốc Ohier.
              Năm 1882, Thư viện đổi tên thành Thư viện Tư liệu Chính phủ Nam Kỳ thuộc Pháp (Bibliothèque de Documentation du Gouvement de la Cochinchine Francaise hay Bibliothèque Saigon) và trở thành thư viện công cộng đầu tiên của Việt Nam nằm tại số 27 đường Lagrandiere về sau là  số 159 - 161 đường Gia Long. 



              Năm 1902, Thư viện được tách ra thành một sở tự trị gọi là Thư viện Nam Kỳ Soái phủ (Bibliothèque de la Cochinchine) trực thuộc Tòa Thượng thư đặt ở tầng một của Tòa Thư ký Chính phủ (số 27 đường Lagrandìere nay là đường Lý Tự Trọng). Năm 1909, ông Riffa là giám thư đầu tiên được bổ nhiệm chính thức điều khiển thư viện. Thư viện đã tích lũy được một bộ sưu tập khá lớn của hơn 10.000 tập về pháp luật, khoa học, lịch sử và văn học, cùng với các tờ báo và tạp chí.
            Chẳng bao lâu sau năm 1920, Thư viện Nam Kỳ chuyển đến cơ sở lớn hơn bên kia đường tại số 34 rue de Lagrandière.



                                         số 34 rue de Lagrandière ngày nay

          Năm 1946, Thư viện Nam Kỳ được Pháp trao lại cho Chính phủ lâm thời Việt Nam, đến năm 1949 được đổi tên là Thư viện Nam phần.
           Ở Sài Gòn có 3 thư viện công quyền gồm: Thư viện Nam phần; Tổng Thư viện với trụ sở tạm thời trong trường Pétrus Ký, đường Trần Bình Trọng, trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn; Thư viện cho mượn và phòng đọc thiếu nhi tại 194D Pasteur, trước đây là bộ phận của Thư viện Nam phần
          Ngày 01-07-1957, theo công lệnh số 544/GD-CL của Bộ giáo dục, Tổng Thư viện trực thuộc Viện Đại học Sài Gòn chuyển sang thuộc quyền quản lý của Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
         Ngày 04-08-1964, Nghị định số 1354/GD/PC/ND, Tổng Thư viện Sài Gòn trực thuộc Nha Văn Khố và Thư viện Quốc Gia; Thư viện Nam Phần chuyển sang trực thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục.
          Bộ Quốc Gia Giáo Dục tổ chức cuộc thi vẽ đồ án trụ sở Thư viện Quốc Gia đặt tại số 69 Gia Long (nay là 69 đường Lý Tự Trọng). Chính quyền Sài Gòn mở 4 kỳ xổ số đặc biệt để lấy kinh phí xây dựng Thư viện Quốc Gia. Trong năm 1955, công trình xây dựng Thư viện Quốc Gia được khởi công với sự chủ tọa của Ngô Đình Diệm, nhưng dự án bị bỏ dở cho đến ngày 28-12-1968.

         Giai đoạn từ năm 1968 đến trước 30/04/1975:
         Khám lớn Sài Gòn được khởi công xây dựng thành Thư viện Quốc Gia dựa vào đồ án thiết kế của hai kiến trúc sư Bùi Quang Hạnh và Nguyễn Hữu Thiện với sự cộng tác của cố vấn kỹ thuật – Kiến trúc sư Lê văn Lắm. Thủ tướng Trần Văn Hương đã đặt viên đá đầu tiên để khởi công và công trình hoàn thành vào cuối năm 1971.  Ngày 23-12-1971, Thư viện Quốc Gia được khánh thành và đi vào hoạt động tháng 2-1972.
       Kinh phí xây dựng lên đến 177 triệu đồng, nhà thầu xây cất phải dùng tới 100.000 công thợ, 500 tấn sắt và 27.000 bao xi măng ròng rã 3 năm công việc xây cất mới hoàn thành với diện tích 7070 m2 bao gồm hai khối:
      - Khối thứ nhất là một dãy nhà dài 71 m, ngang 23 m gồm một tầng hầm, một tầng trệt và hai lầu, một sân thượng ở lầu hai.
      - Khối thứ hai nằm ở trung tâm, hình vuông và vươn lên cao như một ngọn tháp với 14 tầng, cao 43m, chứa tài liệu.
      Đây là thư viện lớn nhất Việt Nam vào thời bấy giờ, có kiến trúc hiện đại kết hợp với tính dân tộc. Lúc này thư viện có 53 nhân viên phục vụ với khoảng 100.000 bản tài liệu.








                Trên một mảnh đất bao bọc bởi bốn con đường thông qua bài này chúng ta thấy biết bao nhiêu đổi thay từ lúc thành phố Sài Gòn được hình thành ít lâu đến sau này. Bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu mảng đời, bao nhiêu số phận theo năm tháng; rồi đây có ai còn nhớ cho những con người đó không?

Thứ Tư, 17 tháng 12, 2014

DINH GIA LONG

                      Dinh Gia Long cũng là một công trình lâu đời của Sài Gòn, nó được người ta để ý nhiều nhất sau sự kiện đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 nhưng rồi sau đó ít lâu nó trở thành quên lãng mặc dù được sử dụng làm trụ sở Tối cao Pháp viện thời Việt Nam Cộng Hòa nhưng mỗi khi người dân đi qua đường Công Lý hay Gia Long ít có ai ngó vô tòa nhà này. Cũng như những bài viết trước tôi giới thiệu với các bạn về dinh Gia Long, về lịch sử của bản thân nó cũng như lịch sử đi theo nó cho tới năm 1975.

                    1. Lịch sử:

                   Tòa nhà này được khởi công xây dững vào năm 1885 và hoàn tất vào năm 1890 theo bản thiết kế của kiến trúc sư Marie-Alfred Foulhoux (1840-1892). Lúc đầu dự tính làm viện bảo tàng thương mại cho nên vì thế tại sao hai bức tượng trang trí ở mặt tiền là hai vị thần Hermes và Mercure bảo trợ cho thương mại và các hình mỏ neo của tàu biển. Sau đó nó có tên là Palais du lieutenant-gouverneur hay Ex- palais du gouverneur de la Cochinchine hoặc Palais Lagrandiere. Ngay sau khi xây xong, tòa nhà lại được Thống đốc Nam kỳ Henri Eloi Danel (1850 - 1898) dùng làm tư dinh. Về sau, tòa nhà được sử dụng hẳn làm dinh Thống đốc hay còn gọi là dinh Phó soái (trước năm 1911).
                        Năm 1945, dinh Thống đốc nhiều lần đổi chủ. Sau khi quân Nhật tiến hành đảo chính Pháp tại Đông Dương ngày 9 tháng 3, Thống đốc người Pháp Ernest Thimothée Hoeffel bị bắt; Thống đốc người Nhật là Yoshio Minoda sử dụng tòa nhà làm dinh thự.

                     Ngày 14 tháng 8, người Nhật giao lại dinh thự cho chính quyền Trần Trọng Kimcủa Đế quốc Việt Nam để làm dinh Khâm sai Đại thần Nam Bộ Nguyễn Văn Sâm.

Đến ngày 25 tháng 8, Việt Minh cướp chính quyền, bắt giam Khâm sai Nguyễn Văn Sâm và Đổng lý văn phòng phủ khâm sai Hồ Văn Ngà tại dinh khâm sai. Sau đó, dinh trở thành trụ sở Ủy ban Hành chánh Lâm thời Nam bộ, gọi tắt là Lâm ủy Nam Bộ, rồi của Ủy ban Nhân dân Nam Bộ.

                   Ngày 10 tháng 9, Trung tá B. W Roe (phái bộ quân sự Anh) chiếm dinh làm trụ sở Phái bộ Đồng minh, buộc Ủy ban Nhân dân Nam Bộ phải dời về dinh Đốc lý.

                  Đến ngày 5 tháng 10, dinh được tướng Leclerc dùng làm Phủ Cao ủy Cộng hòa Pháp tạm thời. Sau khi Cao ủy Cộng hòa Pháp tại Đông Dương là Đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu chọn dinh Norodom làm Phủ Cao ủy, thì dinh lại trở thành nơi làm việc của tướng Leclerc, nhưng lần này với danh nghĩa chính thức là trụ sở của Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt Nam.

               Sau khi tái chiếm Đông Dương, ngày 23 tháng 5 năm 1947, chính quyền Pháp đã bàn giao dinh cho Thủ tướng Lê Văn Hoạch để làm trụ sở chính phủ Nam kỳ quốc. Ngày 2 tháng 6 năm 1948, chính phủ lâm thời Quốc gia Việt Nam được thành lập và dinh được sau đó chuyển thành dinh Tổng trấn (sau đổi thành Thủ hiến) Nam phần dưới quyền sử dụng của Thủ hiến Trần Văn Hữu.

              Tại đây, ngày 9 tháng 1 năm 1950, đã nổ ra một cuộc biểu tình lớn của hơn 6000 học sinh-sinh viên và giáo viên các trường, yêu cầu thả ngay những học sinh, sinh viên bị bắt vô cớ trước đó. Lúc 13 giờ chiều ngày hôm đó, chính quyền của thủ hiến Trần Văn Hữu đã huy động một lực lượng lớn cảnh sát để đàn áp, bắt giữ 150 người, đánh 30 người trọng thương tại chỗ, học sinh trường Petrus Ký là Trần Văn Ơn đã bị trúng đạn tử thương. Sự kiện này đã dẫn đến đám tang Trần Văn Ơn ngày 12 tháng 1 năm 1950, có đến 25.000 tham gia.

               Sau Hiệp định Genève, Ngô Đình Diệm về Sài Gòn nhận chức thủ tướng. Vì dinh Norodom còn do Cao ủy Pháp là tướng Paul Ely đang sử dụng, nên dinh trở thành dinh Thủ tướng tạm thời từ ngày 26 tháng 6 đến ngày 7 tháng 9 năm1954. Dinh cũng được Quốc trưởng Bảo Đại đặt cho tên mới là dinh Gia Long. Con đường La Grandìere trước mặt cũng được đổi tên thành đường Gia Long.

              Sau cuộc trưng cầu dân ý phế truất Bảo Đại năm 1955, Ngô Đình Diệm dùng tòa nhà này làm dinh Quốc khách. Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Độc Lập bị ném bom, Ngô Đình Diệm dời phủ tổng thống sang đây và ở đây cho đến ngày bị đảo chính lật đổ vào tháng 11 năm 1963.

             Trong thời gian 1964 –1965, dinh được dùng làm dinh Quốc trưởng. Ngày 31 tháng 10 năm 1966, khi dinh Độc Lập xây lại xong, tòa nhà này được dùng làm trụ sở của Tối cao Pháp viện Việt Nam Cộng hòa cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975.


               2. Kiến trúc:
                Tổng diện tích của kiến trúc bao gồm một tòa nhà rộng hơn 1.700 m² gồm hai tầng của tòa nhà chính và tòa nhà ngang thiết kế theo phong cách cổ điển - phục hưng, kết hợp Âu - Á: mặt tiền của tầng lầu mang đường nét Tây phương, nhưng phần mái lại mang dáng dấp Á Đông. Bao quang khu nhà là một khuôn viên vườn hoa có hình dạng như một hình thang bao quanh bởi 4 con đường đã kể trên.

                  Do mục đích ban đầu của tòa nhà là Bảo tàng Thương mại trưng bày những sản vật trong nước, vì thế ở hai bên cửa chính có 2 cột trụ trang trí bằng hai tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp. Ngay phần chóp trên mái tam giác ở mặt phía trước được trang trí bằng một tượng đầu người nghiêm trang. Hai bên trang trí bằng các họa tiết đắp nổi như cành dương liễu, tràng hoa lá bao xung quanh, rắn khoanh tròn, hình tượng con gà tượng trưng cho ban ngày và chim cú tượng trưng cho ban đêm ở hai góc, một vòng hào quang phía sau đầu tượng.

                Nhiều họa tiết khác đắp nổi trên mái là sự kết hợp giữa các biểu tượng thần thoại Hi Lạp và hình tượng cây cỏ và thú vật vùng nhiệt đới như họa tiết thằn lằn và chim cao cẳng chuyển động bằng cách uống cong hoặc xòe cánh.

Năm 1943, Thống đốc Nam Kỳ Ernest Thimothée Hoeffel lại cho phá bỏ hai tượng nữ thần tại cửa chính của dinh để xây dựng một mái hiên.

                Ngày 27 tháng 2 năm 1962, dinh Norodom (tức dinh Độc Lập) bị lực lượng đảo chính ném bom, Tổng thống Ngô Đình Diệm dời về dinh dinh Gia Long và cho xây dựng hầm bí mật trong dinh. Theo hồ sơ lưu trữ, hầm được xây dựng từ tháng 5 tháng 1962 đến tháng 10 năm 1963 thì xong, với tổng kinh phí 12.514.114 đồng lúc bấy giờ, và theo bản thiết kế của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ.


            3. Tiểu sử của Marie-Alfred Foulhoux (1840-1892):
            Sinh ra ở Mauzun (Puy-de-Dome) vào ngày 23 tháng 9 năm 1840, Foulhoux học kiến ​​trúc tại École des Beaux-Arts ở Paris 1862-1870 và sau đó trở thành một Thanh tra kiến ​​trúc của công ty hỏa xa Paris ở Lyon và ở Địa Trung Hải (PLM), một trong những công ty đường sắt tư nhân quan trọng nhất ở Pháp.

               Năm 1874, ông rời Sài Gòn, nơi mà trong năm sau, ông đã gặp Paulin Vial là Giám đốc công trình dân sự. Sau đó, vào năm 1879, sau khi thành lập chế độ dân sự đầu tiên ở Nam Kỳ dưới quyền Thống đốc Charles Le Myre de Vilers, Foulhoux được bổ nhiệm làm Kiến trúc sư trưởng, cho phép ông tập trung hoàn toàn vào những gì ông đã làm tốt nhất - thiết kế tòa nhà dân sự cho các thuộc địa.

               Năm 1892 ông mất và được an táng tại nghĩa trang  Massiges ở Sài Gòn sau này là nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.



                                             Mộ của Marie-Alfred Foulhoux






Dinh Gia Long theo thiết kế ban đầu với

hai tượng nữ thần Thương nghiệp và Công nghiệp ở cửa chính





Một số hình về Palais du lieutenant gouverneur




Một số hình về dinh Gia Long thời VNCH

                        4. Đường hầm trong dinh và cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963:
                            Ngày 27/2/1962, xảy ra vụ đảo chính, ném bom Dinh Độc Lập mưu sát gia đình Tổng thống Ngô Đình Diệm. Mặc dù cuộc mưu sát không thành nhưng sự kiện này khiến Ngô Đình Diệm lo sợ cho số phận của mình.
                       Ông ta liền dời về Dinh Gia Long và quyết định cho xây dựng một đường hầm bí mật để trú ẩn. KTS Ngô Viết Thụ được Ngô Đình Diệm tin cẩn giao cho việc vẽ bản thiết kế xây dựng đường hầm này. Sau khi KTS Ngô Viết Thụ sang Mỹ, Kỹ sư Phan Đình Tăng- Giám đốc Nha Kiều lộ là người duy nhất được giao nhiệm vụ thi công, kiểm soát nghiên cứu lại đồ án và hoàn tất bản vẽ.
                       Hầm được nhà thầu Trương Đăng Khoa xây dựng từ tháng 5/1962, đến ngày 30/10/1963 thì hoàn tất với tổng kinh phí là 12.514.114 đồng (tiền thời đó). Hầm được đào sâu xuống mặt đất 4 m, đúc bằng xi măng cốt sắt (170kg sắt/m3 bê tông), tường dày 1 m.
                   Với thiết kế này, các lọai trọng pháo và bom 500kg nếu có oanh tạc vào dinh cũng không làm sập hầm. Hầm có 6 cửa bằng sắt, đóng mở bằng cách xoay một bánh lái như cửa tàu thủy, phía trong còn có chốt sắt thật lớn để cài khi có sự cố.
Phần mặt đất phía trên nắp hầm được ngụy trang bằng những chậu cây cảnh. Trong hầm có hệ thống thông gió, hệ thống điện thắp sáng, hệ thống nước sạch và cống dẫn nước thải, nước mưa.
                   Tổng diện tích mặt bằng hầm là 1392,3m2 (30,6x45,5). Từ trên xuống hầm theo 2 đường cầu thang A (hướng đường Công Lý) và cầu thang B (hướng đường Pasteur). Theo đường cầu thang A xuống gặp 2 phòng liền nhau: Phòng khách và phòng vệ sinh.
                 Theo đường cầu thang B xuống gặp phòng máy đèn. Từ phòng này đi xuống gặp ngay phòng của Ngô Đình Nhu và kế bên là phòng Ngô Đình Diệm với diện tích 17m2.
Phòng Ngô Đình Diệm đặt 1 chiếc bàn vuông, một cái bệ nhỏ và hệ thống thông tin liên lạc. Hầm có lối ra một lô cốt hướng đường Công Lý và 6 lỗ thông gió, 2 lỗ thoát nước bẩn.
            Do yêu cầu bí mật, các giấy tờ liên quan đến việc xây dựng hầm trước ngày 11/11/1963 (ngày Ngô Đình Diệm bị lật đổ) đều tránh nêu từ “Hầm” mà chỉ là “Công tác xây cất ở Dinh Gia Long).
             Hầm được xây trong thời gian gấp rút nên chưa trang bị các vật dụng tiện nghi. Thậm chí, đến khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, một hạng mục rất cần thiết có trong dự trù vẫn chưa hoàn thành, đó là hệ thống máy quạt để điều hoà không khí dù máy quạt đã được nhập về để ở Sở Nội dịch.






             Ngày 1/11/1963, quân đảo chính đã tấn công vào hầm. Tại đây còn một lá cờ trắng, một số tài liệu viết tay ghi lại những cuộc điện đàm tại phòng của Ngô Đình Diệm.
6 giờ 45 phút ngày 2/11/1963, Dinh Gia Long thất thủ. Đúng vào thời điểm này, Diệm và Nhu đang cầu kinh tại nhà thờ Francisco Xavier (Nhà thờ Cha Tam).
           Do có mật báo nên vài phút sau đó, quân đảo chính đã cho chiếc M.113 đến nhà thờ Cha Tam. Diệm – Nhu bị trói đưa lên xe rồi bị đánh đập và bị bắn chết.
          Chỉ huy đánh vào dinh Gia Long lúc đó là đại tá Nguyễn Văn Thiệu sư trưởng sư đoàn 5.






           Tôi còn nhớ không khí ngày hôm đó. Sáng tôi đi học về thì thấy lính bao vây ngăn tại ngả tư Tự Đức - Đinh Tiên Hoàng rất đông. Bọn con nít tụi tôi ra đứng xem chẳng biết chuyện gì cả khi những người lính này chặn bắt tất cả lính bảo vệ thành Cộng Hòa; thì vào khoảng 15 giờ tiếng súng vang lên ở phía đài phát thanh Sài Gòn rồi sau đó vang lên khắp nơi. Tất cả mọi người đang đứng xem chạy tán loạn vào núp trong nhà. Đạn súng cối và đại bác bắn từ phía xa lộ Biên Hòa liên tiếp bay vào thành Cộng Hòa. Khoảng 16 giờ có hai chiếc A1 bay vào thì bị quân đảo chính bắn lên nhưng sau đó được nhận diện là cùng một phe. Hai chiếc này quần trên cư xá Thành Tín góc Hồng Thập Tự - Nguyễn Bĩnh Khiêm rôi bỏ bom napalm xuống. Cả khu vực tôi ở điện bị cúp hoàn toàn. Đến sáng 2 tháng 11 thù cuộc đảo chính đã thực hiện xong. Khu vực bờ tưởng sân Hoa Lư đối diện qua thành Cộng Hòa bị pháo làm sập tan nát; pháo cũng làm sập một khoảng tường của thành Cộng Hòa mà sau này là đường Cường Để bên hông đài truyền hình Sài Gòn. Còn trường Lamartine nơi tôi đang học thì bị phá hủy hoàn toàn.

            (Nguồn historicvietnam.com do Tim Doling viết, Wikipedia và các trang mạng khác)
                            

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...