Thứ Hai, 6 tháng 6, 2011

4. Ban đại diện học sinh

4. Ban đại diện học sinh
Năm 1969, Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn mới chính thức ra mắt mặc dù đã có tên từ năm 1967 vì Pháp còn duy trì các lớp bên khu trung học của trường. Sau khi thành lập trường đã tổ chức cuộc bầu bán Ban đại diện học sinh và tôi cũng có chân trong ban đại diện với chức vụ là trưởng khối báo chí, trong đó có các bạn tôi còn nhớ tên đến ngày nay như Anh Thư, Nhân, Minh Dũng và Lê Phong Sơn là tổng thư ký.
Trong suốt thời kỳ từ năm 1969 đến năm 1975, ban đại diện học sinh đã làm được một số chuyện như:
-         Phối hợp với nhà trường tổ chức các cuộc văn nghệ cây mùa xuân.
-         Đi thăm ủy lạo chiến sĩ ở bệnh viện Cộng Hòa.
-         Vận động các bạn học đóng góp cho đồng bào lũ lụt miền trung năm 1973 ở Quãng Ngãi. Trong chuyến đi này, tôi có tham gia. Chuyến ra đi bằng phi cơ C 130 tại Tân Sơn Nhất và dự tính về bằng Air Việt Nam nhưng vào giờ chót phi cơ Air Việt Nam không ghé được Quãng Ngãi vì phi trường bị hư hại do bão lụt. Lúc đó dân biểu Trần Văn Đôn đơn vị Quãng Ngãi và tỉnh trưởng Lê Bá Phẩm điện về Sài Gòn xin chiếc chuyên cơ của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đưa chúng tôi về nhưng phải lại đáp tại Đà Nẳng.
-         Đi nghe buổi nói chuyện của nhà văn Duyên Anh ở trường Petrus Ký.
-         Tổ chức đợt dã ngoại tại biển Long Hải.
-         Đi thăm trường tiểu học cộng đồng Cai Lậy.
-         Đi tham quan xưởng sơn mài Thành Lễ.
-         Và còn nhiều nữa nhưng giờ phút này tôi chỉ nhớ có chừng đó.

5. Số phận các lớp đầu đàn chúng tôi
Các lớp chuyển tiếp từ chương trình Pháp sang Việt cuối cùng còn lại hai lớp là lớp 8 và lớp 7 cùng một số lớp 6 từ các nguồn tuyển khác nhau đã hình thành trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Hai lớp của chúng tôi có số lượng học sinh rất ít chỉ có khoảng 15 người trở xuống. Chính vì vậy nhà trường kiếm cách chuyển chúng tôi 2 lần sang trường Petrus Ký đối với nam còn sang  Trưng Vương hay Gia Long đối với nữ. Quyết định này vấp phải sự phản đối của các phụ huynh học sinh, nhất là các phụ huynh có thế lực ở xã hội lúc bấy giờ nên nhà trường đàng hủy bỏ quyết định trên. Và với số lượng như thế, chúng tôi tồn tại đến năm 1975. Hai lớp chúng tôi là quá khứ của trường J.J.Rousseau và hiện tại là trường Lê Quý Đôn còn sót lại, là quá khứ của nền văn hóa Pháp đang lụi tàn dần nhường chổ cho văn hóa Mỹ đang lấn át. Khi tôi rời trường thì lúc còn lại là lớp 11B, không biết số phận các bạn ra sao, ai đi ai ở; lâu rồi tôi không còn tin tức về các bạn nữa.

Thứ Năm, 2 tháng 6, 2011

3. Lớp tôi và tờ báo “Vững tiến”
Năm 1969, anh Lê Phong Sơn và tôi đề xuất với thầy Linh ra một tờ báo nội bộ và được thầy chấp thuận. Sau khi bàn bạc xong, chúng tôi thống nhất lấy tên là Vững tiến, anh Sơn là tổng thư ký, tôi là phó. Báo được in bằng ronéo là cách in ấn phổ biến lúc bấy giờ. Tin tức về tờ báo được anh Sơn thông báo với các lớp trong trường thông qua ban đại diện học sinh. Nói về ban bệ của tờ báo có tổng thư ký, phó tổng thư ký nghe cho oai thực ra anh Sơn cũng không có dính dáng nhiều mà phần lớn là tôi kiêm luôn đánh stencil, vẽ, trình bày, duyệt bài vỡ, tư in ấn ( một phần thì in ở Trung tâm học liệu 240 Trần Bình Trọng qua trung gian giới thiệu của thầy Linh) và bán. Hồi đó tôi rất giỏi về chuyện nhớ bài vì tôi thường xuyên mua và đọc các báo Tuổi thơ, Tuổi ngọc, Thiếu nhi nên các bài viết tôi đều nắm cả khó có các bạn nào “đạo văn, đạo thơ” được. Tờ báo chúng tôi làm theo từng chuyên đề được đông đảo bạn học hưởng ứng. Được vài năm thì phong trào chống đối chế độ bắt đầu ảnh hưởng đến trường tôi từ các báo trường bạn đều mang hơi hướm phản chiến. Lúc đó, tôi nhớ hình như thầy Hiệp coi về báo chí của trường thay cho thầy Linh đã chuyển đi, kêu chúng tôi đình chỉ tờ báo. Thế là đến năm 1974 tờ báo của chúng tôi chấm dứt hoạt động.
Việc tôi biết đánh máy và in ronéo cũng nhờ các thầy cô trong phòng hành chánh chỉ dẫn. Các thầy cô giao cho tôi hai bàn đánh máy và  hai máy in ronéo. Tôi nhớ một máy hiệu Extar của Mỹ (máy này rất dỡ, dễ hư), một máy hiệu Gestener của Anh, máy này rất tốt. Mực in và giấy tôi cứ tự nhiên sử dụng, máy có trục trắc tôi mở ra sửa. Thậm chí các thầy cô còn giao cả chìa khóa phòng cho tôi giữ nữa. Cũng nhờ máy này mà tôi kiếm được một số tiền phụ giúp gia đình như việc thầy Le Bourg nhờ tôi đánh tư liệu dạy cho ông. Ông là người hiểu rõ hoàn cảnh của tôi và cũng rất thương tôi. Mỗi lần đánh xong và in xong ông đưa tôi số tiền là 5.000 đồng (Lúc đó có giá trị lắm).
Giờ đây gần 40 năm trôi qua, nhiều khi tôi tự hỏi làm sao tôi có khả năng làm những việc đó. Đây phải nói là một nổ lực đáng kể. Ngày nay nhờ tiến bộ của kỷ thuật việc tôi vừa kể là một việc làm dể dàng.

  Tết Sài Gòn trăm năm trước ra sao?   Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong c...